messages
listlengths
3
3
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Tu hú chùm?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Tu hú chùm, lõi thọ hải nam hay lõi thọ rừng (danh pháp hai phần: Gmelina hainanensis) là một loài thực vật thuộc họ Lamiaceae. Loài này có ở Trung Quốc và Việt Nam. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about An Sơn (định hướng) from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "An Sơn có thể là một trong số các địa danh sau:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Sesquialtera (bướm đêm) không ?", "role": "user" }, { "content": "Sesquialtera là một chi bướm đêm thuộc họ Geometridae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Thái Lập Thành?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Thái Lập Thành (1899-1951) là một nhân sĩ trí thức, chính khách Việt Nam. Ông từng là một viên chức trong chính quyền thuộc địa, hàm Đốc phủ sứ, nguyên Tổng trấn Nam phần kiêm Đô trưởng Sài Gòn. Tuy là một nhân sĩ hoạt động bí mật cho Việt Minh, nhưng oái ăm thay, ông lại bị tử thương trong một vụ ném bom, chính do Việt Minh, qua một đội viên cảm tử, nhằm ám sát tướng Pháp Charles Marie Chanson.\nXuất thân và làm viên chức thuộc địa.\nÔng sinh năm Kỷ Hợi (1899) tại Bạc Liêu, xuất thân trong một gia đình điền chủ giàu có theo đạo Phật. Thuở nhỏ, ông từng theo học bậc Trung học tại trường Collège de My Tho trước khi lên Sài Gòn theo học tại Collège Chasseloup-Laubat và tốt nghiệp tại đây.\nSau khi tốt nghiệp Trung học, ông nhập ngạch hành chánh làm công chức cho chính quyền thuộc địa, từng làm chủ quận ở các tỉnh Nam Bộ. Có thể ông đã gia nhập đạo Cao Đài thời gian này.\nNăm 1943, ông về làm việc ở Dinh Thống đốc Nam Kỳ, thăng đến ngạch Đốc phủ sứ.\nNhiệm chức Thủ hiến và cái chết bất ngờ.\nNăm 1945, khi Việt Minh giành được chính quyền, ông về quê cũ ở Bạc Liêu để ẩn cư. Sau khi người Pháp tái chiếm được Nam Bộ, để tranh thủ nhân tâm, đã cho thành lập chính phủ Nam Kỳ quốc và giao một số chức vụ hành chính cao cấp cho người Việt nắm giữ. Do thái độ không hợp tác với Việt Minh, cũng như quá khứ công chức thuộc địa, ông được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng tỉnh Gò Công.\nSau khi Quốc gia Việt Nam được thành lập, ông được cử làm Tổng trấn Nam phần kiêm Đô trưởng Sài Gòn.\nNgày 31 tháng 7 năm 1951 trên đường đi công vụ cùng tướng Pháp Chanson, ông bị tử thương tại thị xã Sa Đéc do người của Việt Minh ném lựu đạn.\nTrước năm 1975 có ba con đường mang tên Thái Lập Thành, một đường ở Saigon sau năm 1975 đổi thành đường Đông Du, một đường ở Gia Định sau năm 1975 đổi thành đường Phan Xích Long, một đường ở Bạc Liêu sau năm 1975 đổi thành đường Điện Biên Phủ.Ở Gò Công, trước năm 1975,cũng có đường Thái Lập Thành và trường tiểu học Thái lập Thành (gần nhà đèn).", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về 4604 Stekarstrom", "role": "user" }, { "content": "4604 Stekarstrom (tên chỉ định: 1987 SK) là một vành đai tiểu hành tinh. Nó được phát hiện bởi Kenzo Suzuki và Takeshi Urata ở Toyota (thành phố), Aichi, Nhật Bản, ngày 18 tháng 9 năm 1987. Nó được đặt tên cho Stephen và Karen Strom, hay nhà thiên văn và chụp ảnh Hoa Kỳ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Varaignes from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Varaignes là một xã, nằm ở tỉnh Dordogne vùng Aquitaine của Pháp. Xã này có diện tích 16,6 km², dân số năm 2004 là 415 người. Xã nằm ở khu vực có độ cao trung bình 144 m trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Eleutherodactylus parvillus is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Eleutherodactylus parvillus là một loài ếch trong họ Leptodactylidae.\nNó được tìm thấy ở Colombia và Ecuador.\nCác môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, và các khu rừng trước đây bị suy thoái nặng nề. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Moe (tiếng lóng) ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": " (phát âm tiếng Việt: mô-ê) là tiếng lóng Nhật Bản. Dùng để ám chỉ cảm tình mạnh mẽ với các nhân vật hư cấu (trong manga, anime...)\" Patrick W. Galbraith nhấn mạnh rằng đó là một kiểu chơi chữ xuất phát từ một từ gốc Nhật có nghĩa là \"thiếu nữ\", được ví như đóa hoa chớm nở, và do đó nó cũng được dùng với nghĩa \"thiếu nữ\" dành cho một cô gái dậy thì. Vì từ này đồng âm với \"bùng cháy\" (phát âm ), từ đó suy ra nguồn gốc của \"moe\" bắt nguồn từ niềm đam mê bùng cháy với các nhân vật. Từ nay được sử dụng trong các trường hợp đặc biệt để chỉ \"đáng yêu\", hay cụ thể là \"dễ thương\", cũng có thể là chỉ các hành động, cử chỉ đáng yêu, chủ yếu để nhận xét các nhân vật hư cấu.\nTừ này đôi khi được đánh vần là Moé, và dùng để nhấn mạnh một cá tính hay một phong cách thiết kế cụ thể của các nhân vật trong trò chơi điện tử Nhật Bản (visual novel), anime hay manga. Những cô gái moe được gọi là , trong đó hậu tố \"娘\" nghĩa là \"bé gái\". Theo cái nhìn của người hâm mộ, các otaku sùng bái moe có thể hưởng ứng hay bất bình với một anime hay manga tùy theo quan điểm của mỗi người. Các anime bishōjo thường được ghép chung với moe như một thể loại, bởi thực tế là nhiều nhân vật trong các tác phẩm đó có xu hướng moe. Các tác phẩm được đánh giá moe nhất là của Kyoto Animation, như \"Kanon\" và \"CLANNAD\" của Key, \"Lucky ☆ Star\", \"The Melancholy of Suzumiya Haruhi\" và đặc biệt hai mùa phim \"K-ON!\" với doanh thu cực cao từ các sản phẩm chuyển nhượng.\nMoe là đặc điểm chung của những nhân vật nữ dịu dàng kết hợp với các yếu tố thể chất (tuổi), đặc điểm cảm xúc (ngây thơ hay hồn nhiên), và một cử chỉ đặc biệt thu hút sự chú ý và tình cảm của người hâm mộ. Một cô gái moe có thể cần có hai hay nhiều yếu tố về cỡ mắt, tròng mắt, mũi, miệng, tứ chi và tỉ lệ đầu/thân. Các otaku gọi hầu hết các nhân vật nữ được thiết kế dễ thương dưới cái nhìn của họ là \"moe\".\nCó nhiều cách hiểu khác nhau về moe ngày nay và trong quá khứ. Joseph L. Dela Pena lập luận rằng \"moe\" là tinh khiết, là lớp màn bao bọc một cô gái, không dính đến vấn đề tình dục hóa của lolicon hay còn gọi là \"loli\". Jason Thompson của \"Otaku USA\" nhận định \"moe\" được áp dụng với những thiếu nữ hoặc những bé gái như một nhánh của hiện tượng lolicon đóng vai trò là hình tượng dễ thương trong văn hóa Nhật Bản (kawaii). Scott Von Schilling nghiên cứu thấy \"moe\" còn chỉ một vấn đề tâm lý đối với người đàn ông quá 30 tuổi, đó là \"khao khát được làm cha\".\nNgày nay, trước hiện thực là các otaku ngày càng sùng bái các nhân vật nữ dễ trương trong anime và manga, nhà làm phim hoạt hình và là người theo chủ nghĩa nữ quyền Miyazaki Hayao đã phát biểu:\nNariko Enomoto, một tác giả yaoi và phê bình manga nói rằng \"người hâm mộ nam giới không thể trải nghiệm \"moe\" cho đến khi đã có chỗ đứng của riêng họ\". Cô cũng so sánh fan nam với \"fujoshi\" (dạng otaku nữ sùng bái các anime và manga boy love), ví dụ như tại một thời điểm mà mối quan hệ bạn bè thân thiết trở thành tình cảm lãng mạn.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Mahemdavad from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Mahemdavad là một thành phố và khu đô thị của quận Kheda thuộc bang Gujarat, Ấn Độ.\nĐịa lý.\nMahemdavad có vị trí Nó có độ cao trung bình là 33 mét (108 feet).\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Mahemdavad có dân số 30.769 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Mahemdavad có tỷ lệ 70% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 77%, và tỷ lệ cho phái nữ là 63%. Tại Mahemdavad, 12% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Lenna từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Lenna là một đô thị ở tỉnh Bergamo trong vùng Lombardia của nước Ý, có vị trí cách khoảng 70 km về phía đông bắc của Milano và khoảng 30 km về phía bắc của Bergamo. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 676 người và diện tích là 12,9 km².\nĐô thị Lenna có các \"frazione\" (đơn vị cấp dưới) Scalvino.\nLenna giáp các đô thị: Camerata Cornello, Dossena, Moio de' Calvi, Piazza Brembana, Roncobello, San Giovanni Bianco, Valnegra.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Tăng trưởng kinh tế nha ?", "role": "user" }, { "content": "Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản lượng quốc dân (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định.\nSự tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào 2 quá trình: sự tích lũy tài sản (như vốn, lao động và đất đai) và đầu tư những tài sản này có năng suất hơn. Tiết kiệm và đầu tư là trọng tâm, nhưng đầu tư phải hiệu quả thì mới đẩy mạnh tăng trưởng. Chính sách chính phủ, thể chế, sự ổn định chính trị và kinh tế, đặc điểm địa lý, nguồn tài nguyên thiên nhiên, và trình độ y tế và giáo dục, tất cả đều đóng vai trò nhất định ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.\nTăng trưởng và phát triển.\nQuy mô của một nền kinh tế thể hiện bằng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP), hoặc tổng sản phẩm bình quân đầu người hoặc thu nhập bình quân đầu người (\"Per Capita Income\", PCI).\nTổng sản phẩm quốc nội (\"Gross Domestic Products\", GDP) hay tổng sản phẩm trong nước là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được sản xuất, tạo ra trong phạm vi một nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là một năm tài chính).\nTổng sản phẩm quốc dân (\"Gross National Products\", GNP) là giá trị tính bằng tiền của tất cả sản phẩm và dịch vụ cuối cùng được tạo ra bởi công dân một nước trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Tổng sản phẩm quốc dân bằng tổng sản phẩm quốc nội cộng với thu nhập ròng.\nTổng sản phẩm bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc nội chia cho dân số. Tổng thu nhập bình quân đầu người là tổng sản phẩm quốc gia chia cho dân số.\nTăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định. Tăng trưởng kinh tế thể hiện sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Tuy vậy ở một số quốc gia, mức độ bất bình đẳng kinh tế tương đối cao nên mặc dù thu nhập bình quân đầu người cao nhưng nhiều người dân vẫn sống trong tình trạng nghèo khổ.\nPhát triển kinh tế mang nội hàm rộng hơn tăng trưởng kinh tế. Nó bao gồm tăng trưởng kinh tế cùng với những thay đổi về chất của nền kinh tế (như phúc lợi xã hội, tuổi thọ, v.v.) và những thay đổi về cơ cấu kinh tế (giảm tỷ trọng của khu vực sơ khai, tăng tỷ trọng của khu vực chế tạo và dịch vụ). Phát triển kinh tế là một quá trình hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế bao gồm kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế trong một thời gian nhất định nhằm đảm bảo rằng GDP cao hơn đồng nghĩa với mức độ hạnh phúc hơn.\nĐo lường tăng trưởng kinh tế.\nĐể đo lường tăng trưởng kinh tế có thể dùng mức tăng trưởng tuyệt đối, tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trong một giai đoạn.\nMức tăng trưởng tuyệt đối là mức chênh lệch quy mô kinh tế giữa hai kỳ cần so sánh.\nTốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %.\nBiểu diễn bằng toán học, sẽ có công thức:\ntrong đó Y là quy mô của nền kinh tế, và y là tốc độ tăng trưởng. Nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) danh nghĩa, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hoặc GNP) danh nghĩa. Còn nếu quy mô kinh tế được đo bằng GDP (hay GNP) thực tế, thì sẽ có tốc độ tăng trưởng GDP (hay GNP) thực tế. Thông thường, tăng trưởng kinh tế dùng chỉ tiêu thực tế hơn là các chỉ tiêu danh nghĩa.\nLý thuyết tăng trưởng kinh tế.\nĐể giải thích nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế các nhà kinh tế học dùng các mô hình kinh tế.\nTrước Keynes, kinh tế học cổ điển và tân cổ điển không phân biệt rành mạch tăng trưởng kinh tế với phát triển kinh tế. Hơn nữa, ngoại trừ Schumpeter, các trường phái trên đều không coi trọng vai trò của tiến bộ kỹ thuật đối với tăng trưởng kinh tế.\nLý thuyết tăng trưởng kinh tế của kinh tế học vĩ mô Keynes tiêu biểu là mô hình Harrod-Domar. Mô hình này dựa trên hai giả thiết căn bản: (1) giá cả cứng nhắc, và (2) nền kinh tế không nhất thiết ở tình trạng toàn dụng lao động. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn (yếu tố K, capital) đưa vào sản xuất tăng lên. Từ đó, họ suy luận ra được rằng một khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì sẽ càng ngày càng không cân bằng (mất ổn định kinh tế).\nTrong khi đó, lý thuyết tăng trưởng tân cổ điển xây dựng mô hình của mình dựa trên hệ giả thiết mà hai giả thiết căn bản là: (1) giá cả linh hoạt, và (2) nền kinh tế ở trạng thái toàn dụng lao động. Mô hình tăng trưởng kinh tế của họ cho thấy, khi nền kinh tế đang ở trạng thái tăng trưởng cân bằng mà chuyển sang trạng thái tăng trưởng không cân bằng thì đó chỉ là nhất thời, và nó sẽ mau chóng trở về trạng thái cân bằng.\nCác nhân tố của tăng trưởng doanh thu.\nSau khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển lẫn các nước đang phát triển, những nhà kinh tế học đã phát hiện ra rằng động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng trên bốn bánh xe, hay bốn nhân tố của tăng trưởng kinh tế là nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên, tư bản và công nghệ. Bốn nhân tố này khác nhau ở mỗi quốc gia và cách phối hợp giữa chúng cũng khác nhau đưa đến kết quả tương ứng.\nHạn chế của các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế.\nCác chỉ tiêu đo lường mức tăng trưởng kinh tế được sử dụng làm thước đo trình độ phát triển nền kinh tế một cách cụ thể, dễ hiểu và nó trở thành mục tiêu phấn đấu của một chính phủ vì nó là tiêu chí để người dân đánh giá hiệu quả điều hành đất nước của chính phủ.\nNhưng tăng trưởng kinh tế không phản ảnh được chính xác phúc lợi của các nhóm dân cư khác nhau trong xã hội, chênh lệch giàu nghèo có thể tăng lên, chênh lệch giữa nông thôn và thành thị có thể tăng cao và bất bình đẳng xã hội cũng có thể tăng. Tăng trưởng có thể cao nhưng chất lượng cuộc sống có thể không tăng, môi trường có thể bị hủy hoại, tài nguyên bị khai thác quá mức, cạn kiệt, nguồn lực có thể sử dụng không hiệu quả, lãng phí.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Bulbophyllum lageniforme nha ?", "role": "user" }, { "content": "Bulbophyllum lageniforme là một loài phong lan thuộc chi \"Bulbophyllum\".\nTham khảo.\nlageniforme]]", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Hải lưu Bắc Thái Bình Dương?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Hải lưu Bắc Thái Bình Dương là một hải lưu nước ấm chảy chậm, chuyển động từ tây sang đông trong khoảng vĩ độ từ khoảng 40 tới 50° vĩ bắc trong Thái Bình Dương. Hải lưu này tạo thành phần phía nam của Hoàn lưu cận vùng cực Bắc Thái Bình Dương.\nHải lưu Bắc Thái Bình Dương được tạo thành từ sự hợp lưu của hải lưu Kuroshio, một hải lưu chảy về phía bắc tại vùng ngoài khơi duyên hải phía đông nam Nhật Bản, và hải lưu Oyashio, một hải lưu nước lạnh cận Bắc cực chảy về phía nam tới sát đông nam Nhật Bản và luân chuyển ngược chiều kim đồng hồ dọc theo phía tây của Bắc Thái Bình Dương.\nHải lưu Bắc Thái Bình Dương cũng tạo thành phần phía bắc của Hoàn lưu cận nhiệt đới Bắc Thái Bình Dương.\nTại miền đông của Bắc Thái Bình Dương thì hải lưu này tách ra thành hải lưu California chảy về phía nam và hải lưu Alaska chảy về phía bắc.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of 10986 Govert is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "10986 Govert là một tiểu hành tinh vành đai chính với chu kỳ quỹ đạo là 1214.1889719 ngày (3.32 năm). \nNó được phát hiện ngày 16 tháng 10 năm 1977.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Alucita habrophila", "role": "user" }, { "content": "Alucita habrophila là một loài bướm đêm thuộc họ Alucitidae. Loài này có ở Nam Phi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Vollerwiek?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Vollerwiek là một đô thị thuộc huyện Nordfriesland, bang Schleswig-Holstein, Đức.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cirroedia ?", "role": "user" }, { "content": "Cirroedia là một chi bướm đêm thuộc họ Noctuidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Leptocerus atyudatta ?", "role": "user" }, { "content": "Leptocerus atyudatta là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Longevelle-lès-Russey", "role": "user" }, { "content": "Longevelle-lès-Russey là một xã của tỉnh Doubs, thuộc vùng Franche-Comté, miền đông nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Ultratop 40 Singles", "role": "user" }, { "content": "Ultratop 40 Singles hay nói một cách gắn gọn hơn: Ultratop 40 là tên một loại bảng xếp hạng âm nhạc hàng tuần của những đĩa đơn bán chạy nhất tại vùng lãnh thổ Wallonia ở Bỉ còn ở khu vực Flanders là Ultratop 50. Cả hai bảng xếp hạng này đều được sản xuất và xuất bản bởi các tổ chức của Ultratop. Cũng giống như UK Singles Chart, Ultratop tạo ra bảng xếp hạng dựa trên doanh số tiêu thụ và tải kỹ thuật số trên mạng . Hiện nay. GfK là người quan sát thị trường của các bảng xếp hạng. Vị trí xếp hạng được phát sóng trên các đài phát thanh vào các ngày thứ bảy hàng tuần trong khoảng thời gian từ 12:00-14:00 giờ. Số lượng người truy cập Ultratop nghe trên đài phát thanh hoặc đài truyền hình luôn vượt quá hai triệu mỗi tuần. Để kỷ niệm lần thứ 10 từ khi bảng xếp hạng được thành lập, đến năm 2005 một cuốn sách hồi khứ được xuất bản. Trong cuốn sách bao gồm tất cả 15.282 đĩa đơn từ 5.882 nghệ sĩ cho đến nay.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Chùa Việt Nam", "role": "user" }, { "content": "Chùa Việt Nam (gọi thông tục là \"Chùa chiền\") là các ngôi chùa trên lãnh thổ Việt Nam. Ở Việt Nam hiện có 18.491 ngôi chùa, chiếm 36% tổng số di tích Việt Nam. Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, một số chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần (điển hình là thờ các vị thiền sư: Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Trần Nhân Tông và Lý Thần Tông), thờ tam giáo (Phật – Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam tổ... Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ \"\"chiền\" (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏). Một số người cho rằng từ \"chiền\"\" có thể có gốc từ \"cetiya\" của tiếng Pali hay \"caitya\" của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật.\nKhái quát.\nTheo câu tục ngữ Việt Nam \"đất vua, chùa làng\", các ngôi chùa đa số là thuộc về cộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối bởi quan niệm phong thủy. Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ (hay tay hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu hoặc có hình rồng, phượng, quy, xà chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Nước thì nên chảy quanh sang trái. Nếu đảo ky, thì mạch nước lại vào ở phía trước. Trước mặt có minh đường hay không có đều được cả.\nCác Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre, tranh cho đến gỗ, gạch, ngói... Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốt nhất có thể được. Vật liệu cũng như tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được quyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là của \"công đức\". Người ta tin là sẽ được hưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc xây dựng chùa. Trên những cột gỗ lim không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ tên người đóng góp. Ngoài ra các tên này cũng được ghi ở các bàn thờ bằng đá hoặc trên các đồ sành, sứ như bát hương, bình hoa, chân đèn... trong một danh sách dài.\nNgày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là những thời điểm có ý nghĩa trong đời sống nhân dân làng quê Việt Nam. Thường có những nghi lễ đặc biệt trong những ngày này. Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa.\nTheo cấu trúc.\nChùa chữ Đinh.\nChùa chữ Đinh (丁), có nhà \"chính điện\" hay còn gọi là \"thượng điện\", là nhà đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với \"nhà bái đường\" hay \"nhà tiền đường\" ở phía trước. Một số chùa tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Hà, chùa Bộc (Hà Nội); chùa Nhất Trụ, chùa Bích Động (Ninh Bình); chùa Trăm Gian (Hà Nội); chùa Dư Hàng (Hải Phòng)...\nChùa chữ Công.\nChùa chữ Công (工) là chùa có 'nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống. Tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Cầu (Hội An); chùa Keo (Thái Bình)\nChùa chữ Tam.\nChùa chữ Tam (三) là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Chùa Kim Liên, chùa Tây Phương ở Hà Nội có dạng bố cục như thế này.\nChùa kiểu \"Nội công ngoại quốc\".\nChùa kiểu \"Nội công ngoại quốc\" là kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền \"nhà tiền đường\" ở phía trước với \"nhà hậu đường\" (có thể là nhà tổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía trong hình chữ Công (工), còn phía ngoài có khung bao quanh như bộ Vi (口) bao bên ngoài như ở chữ Quốc (國).\nĐây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúc chính. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như \"nhà tổ\", là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc \"nhà tăng\", nơi ở của các nhà sư và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan. Chùa kiểu chữ Công (宮) là phổ biến hơn cả. Tuy nhiên có một số ngoại lệ, tiêu biểu là chùa Một Cột ở Hà Nội có hình dáng một bông sen nở trên mặt nước, hay ngôi chùa mới được xây cất như chùa Vĩnh Nghiêm có hai tầng ở Thành phố Hồ Chí Minh mang trong mình cả những nét truyền thống Phật giáo và cả những thành tựu của kiến trúc. Nhưng những ngoại lệ như vậy không nhiều.\nKiến trúc.\nKiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và không gian khác nhau, ở các phong cách kiến trúc địa phương. Chùa kiểu \"chữ Tam\" phổ biến hơn miền Nam hơn ở miền Bắc. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa của người Khmer xây theo kiến trúc của Campuchia và Thái Lan - vốn ảnh hưởng văn hóa của đế chế Khmer. Chùa của người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng.\nTam quan.\nTam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt Nam, là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông.\nSân chùa.\nQua Tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng chùa. Trong sân chùa, đôi khi có các ngọn tháp được xây dựng ở đây như ở chùa Dâu, chùa Thiên Mụ.\nBái đường.\nTừ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường có thể đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông. Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào quy mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.\nChính điện.\nQua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của điện thờ Phật ở Việt Nam.\nHành lang.\nChạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường là hai gian hành lang, tạo thành một nhà ba gian.\nHậu đường.\nQua nhà chính điện, theo đường hành lang ta đến nhà tăng đường (còn gọi là nhà hậu đường), cũng còn gọi là nhà tổ. Nhà hậu đường ở một số chùa trong miền nam Việt Nam liền sát sau nhà chính điện, ngay sau phía bàn thờ Phật.\nTrong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa \"tiền Phật hậu Thần\" phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác chuông lại ở trên nhà tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang. Ngoài công trình chính, chùa Việt Nam thường có vườn cây, vườn hoa được trồng và chăm chút cẩn thận. Nhiều chùa có cả giếng, ao, hồ sen, vườn.\nBài trí tượng thờ.\nDo lịch sử truyền nhập Phật giáo ở Việt Nam, phần lớn chùa Việt Nam là chùa Đại thừa. Do đó, ở nhà chính điện cũng như các tòa nhà khác trong chùa, có bài trí, bày nhiều tượng Phật, Bồ Tát cùng với các tượng thuộc những hệ phái Phật giáo khác.\nTrong chính điện.\nChính điện bao giờ cũng là nơi trung tâm của sự thờ cúng trong chùa. Ở đây có nhiều lớp bàn thờ làm thành bậc từ cao xuống thấp. Vị trí các tượng được thay đổi linh hoạt theo từng chùa. Có những chùa có rất nhiều tượng như chùa Mía ở Hà Tây, có tới 278 pho tượng, chùa Trăm Gian ở Hà Tây có 153 pho tượng... Các lớp bàn thờ được sắp xếp theo nguyên tắc sau: lớp bàn thờ cao nhất ở sâu trên cùng giáp mái chùa, sau đó các lớp bàn thờ đặt tượng cứ thấp dần, tiếp sau lớp bệ thờ cuối cùng bao giờ cũng là hương án. Nguyên tắc bài trí khá uyển chuyển và linh hoạt đối với mỗi chùa. Tuy vậy, một số nét chung thường thấy như sau\nTrên bàn thờ chính ở nhà thượng điện, ngoài tượng Phật A Di Đà, Phật Thích Ca, ở một số chùa còn có tượng Phật Di Lặc. Tượng được tạo với bộ mặt tươi cười, áo phanh, để hở cái bụng to. Thường hai bên tượng này, người ta còn đặt ở bên trái tượng Pháp hoa lâm Bồ Tát, bên phải là Đại diệu tướng Bồ Tát, gọi chung là Di Lặc Tam Tôn. Ngoài ra, ở một số chùa, sau lớp tượng Cửu long, người ta còn bày bốn pho tượng Tứ Thiên Vương. Đó là bốn vị Thiên Vương phân nhau cai quản bốn cõi ở bốn phía núi Tu-di, nơi ngự trị của Đế Thích. Có chùa lại bày tượng Tứ Bồ Tát vào vị trí của Tứ Thiên Vương. Những chùa rộng rãi còn bày thêm tượng tám vị Kim cương (Bát bộ Kim cương) ở hai bên sát chính điện, mỗi bên bốn vị, mặc giáp trụ và cầm vũ khí.\nTượng Phật bà nghìn mắt nghìn tay cũng thấy được bày bổ sung vào điện chính. Cần lưu ý là các tượng Đức Quan thế âm có nhiều biến thể nhất trong các chùa ở Việt Nam và các biến thể này hầu hết lại được diễn tả bằng hình tướng nữ: Phật bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay, Quan Âm Thị Kính. Cũng ở nhà chính điện, ở hai bên dãy bàn thờ chư Phật có thể gặp lại tượng thờ Thái thượng Lão quân ở bên phải và Khổng Tử ở bên trái. Đây là hai vị tổ của Đạo giáo và Nho giáo được thờ trong điện thờ Phật của các chùa để diễn tả tư tưởng \"Tam giáo đồng nguyên\" của xã hội Việt Nam xưa.\nTrong bái đường.\nTrong nhà tiền đường (gian bên cạnh của nhà bái đường) thường có hai tượng Hộ pháp là những vị thần bảo vệ Phật Pháp, mặc giáp trụ, cầm vũ khí, đứng hoặc ngồi trên lưng sấu, một loại sư tử huyền thoại. Kích thước của tượng rất lớn, đắp bằng đất thó. Dân gian vẫn nói \"to như ông Hộ pháp\" là cách nói so sánh với hai tượng này. Còn một số thuyết khác, đã thành phổ biến, cho rằng tượng vị bên trái là Khuyến thiện (gọi tắt là ông Thiện), tượng vị bên phải là Trừng ác (gọi tắt là ông Ác). Theo thuyết này thì việc bày đối xứng hai tượng ông Thiện-Ác nói lên sự tồn tại biện chứng của hai bản nguyên Thiện-Ác.\nỞ phía Đông nhà bái đường có ban thờ tượng Thổ địa thần, có một số chùa đưa tượng này ra thờ riêng ở một miếu bên cạnh chùa. Ở một số chùa, bên cạnh thờ Thổ địa thần ta gặp bàn thờ Long thần. Theo truyền thuyết, Long vương vốn lúc đầu định hãm hại Phật tổ, phá hoại sự nghiệp của Phật, không cho thành chính quả nhưng đã không phá nổi nên đã quy Phật và hộ trì Phật pháp.\nPhía Tây nhà bái đường thường có pho tượng Thánh tăng. Tượng này được bày nhiều nhất ở nhà tăng đường (nhà tổ). Ở nhà tổ, ngoài tượng các vị sư từng trụ trì ở chùa, còn có bàn thờ đặt tượng Bồ Đề Đạt Ma, nhà sư Ấn Độ đến Trung Hoa vào khoảng đầu thế kỷ 6, được coi là người sáng lập Thiền Tông ở đó. Ở nhà bái đường, đôi khi còn có các bàn thờ mười vị Diêm Vương, được gọi là thập điện Diêm Vương, tức mười vị vua cai quản mười tầng địa ngục.\nNhà hành lang.\nNhà hành lang có thể là hai dãy nhà chạy song song ở hai bên nhà chính điện. Cũng có thể là hai dãy như vậy mà chung mái với nhà điện chính và mang đúng nghĩa là hành lang, theo hai lối hành lang này có thể đi tiếp vào hậu đường. Người ta thường bày tượng 18 vị Tổ truyền đăng, mỗi bên 9 tượng. Có chùa như chùa Keo ở Thái Bình, các tượng Tổ truyền đăng được bày ngay ở tiền đường. Còn ở chùa Tây Phương, Hà Tây lại là các tượng Tổ (trong 28 vị) người Ấn Độ mà Thiền tông Trung Quốc thừa nhận. Kích thước tượng Tổ truyền đăng tương tự như người thực, các vị ngồi trên tảng đá hay gốc cây, mỗi vị có một tư thế riêng, có dáng đang duy nghĩ trầm mặc. Sự đông đảo và đa dạng của các pho tượng này đã cho ra đời một thành ngữ \"bày la liệt như La Hán\". Cũng có khi tượng La Hán được bày ở nhà hậu đường.\nNhà tăng đường.\nNhà tăng đường còn gọi là nhà hậu đường vì nằm sau chính điện, có thể được xây tách rời hoặc liền sát với chính điện. Cách bố trí tượng thờ ở nhà hậu đường cũng khá đa dạng, nhưng có thể hình dung một công thức sau: Gian giữa của nhà tăng đường thường có bày tượng Thánh tăng (còn gọi là A-nan-đà) và tượng Đức tổ Tây. Đức tổ Tây có pháp danh là Bồ-đề-đạt-ma. Ngài được coi là sư tổ thứ nhất của Thiền tông ở Trung Quốc.\nỞ nhà hậu đường của một số chùa còn bày tượng Quan Âm tống tử và Quan Âm tọa sơn. Hai bên tượng Quan Âm tống tử thường có hai tượng Kim đồng và Ngọc Nữ, hay hai tượng Thiện tài và Long nữ. Chùa Việt Nam còn có một điều đặc biệt đó là có các bàn thờ chư vị tức là các vị thánh của Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian. Đó là bàn thờ Mẫu, tức nữ thần mẹ. Có nhiều Mẫu như: Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu Địa Phủ, Mẫu Liễu, Tứ pháp...\nTrong một số chùa, đằng sau điện thờ Phật là hậu cung thờ một vị thần. Các vị thần được thờ đều là những \"nhân thần\", có nghĩa là những con người được coi là có thực, nhưng về sau nhờ học tập, tu luyện, đã có tài thần thông biến hóa, nghĩa là có những khả năng của một vị thần. Nhờ những khả năng đó, họ cứu dân giúp nước và vì vậy, họ được nhân dân một vùng hay nhiều vùng thờ phụng. Ngoài ra, các nhân vật lịch sử thực sự cũng được thờ tại chùa. Họ là những ông quan, những danh sĩ hay những vị tướng đã có công với nước hay với nhân dân một vùng như Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên thời nhà Trần được thờ ở chùa Dâu, Bắc Ninh hay Đặng Tiến Đông, vị tướng thời nhà Tây Sơn, được thờ ở chùa Trăm Gian, Hà Tây. Trong các chùa này, thường có tượng chân dung các nhân vật lịch sử được thờ.\nMột hình thức thờ tự khác gắn với các chùa Việt Nam là thờ \"hậu\". Hình thức này có mối liên hệ với tập tục thờ cúng tổ tiên đã hình thành lâu đời ở Việt Nam. Nhiều người không có con muốn được thờ cúng sau khi chết, đã tìm đến nhà chùa. Họ đóng góp cho chùa một số tiền hay ruộng đất và xin nhà chùa cúng lễ họ sau khi chết. Sự thờ cúng này gọi là thờ \"hậu\". Trong nhiều chùa, bàn thờ \"hậu\" thường là một hành lang với những bát hương, đặt trước những tấm bia đá, gọi là bia \"hậu\", trên đó có khắc rõ tên tuổi, quê quán của những người không có con cháu nối dõi, thường là cả vợ và chồng, cùng với số tiền họ đóng vào chùa và yêu cầu được thờ ở chùa. Ở chùa Cổ Lễ Nam Định, các bia hậu được gắn dày đặc trên tường hành lang bao quanh chính diện.\nCác pháp bảo.\nCái bát.\nBát là một trong 6 vật dụng của nhà sư. Cái bát bắt nguồn từ truyền thuyết kể về chiếc bát khất thực. Ở các tượng của Phật A-di-đà hay Thích Ca Mâu Ni có thể đôi khi bắt gặp cái bát trên hai tay.\nLiên hoa.\nLiên hoa (hay hoa sen) tượng trưng cho diệu pháp của đạo Phật, cùng một lúc có cả hoa và quả, sinh nở ra nhiều điều tốt lành. Trong điêu khắc và hội họa Phật giáo, hoa sen thường xuyên được xuất hiện. Chư Phật, Chư Bồ Tát đều ngồi trên tòa sen và những người được Phật độ về cõi Tây phương Cực lạc đều ngồi trên tòa sen.\nChuông chùa.\nỞ mọi thời đại, chuông được dùng để thức tỉnh và gọi. Tiếng chuông ngân lên rồi tắt lụi, có thể nghe được mà không bắt được. Sự vô thường của thế giới hiện hữu là một tư tưởng của Phật giáo. Mọi thứ đều sẽ tàn lụi, chúng hiện hữu trong cảm giác người quan sát nhưng lại không có thực. Giống như tiếng chuông, mọi thứ đều nhất thời. Theo nghi lễ Phật giáo, chuông được dùng để kêu gọi tín đồ cầu nguyện và lễ Phật. Có hai loại chuông: chuông to dùng để treo trên gác Tam quan hay ở nhà Bái đường, có thể nặng tới vài trăm kg; loại chuông thứ hai là chuông nhỏ hơn, tượng trưng, thường đặt ở tay một số vị thánh như Tứ đại Thiên Vương hay Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.\nGương.\nChiếc gương tượng trưng cho sự hư không và nó phản ánh tất cả mọi yếu tố của thế giới hiện hữu nhưng lại thu lấy bản chất của chúng. Thế giới hiện tượng được phản chiếu đầy đủ nhưng toàn thể bản chất chỉ là hư ảo, mọi sự chỉ là ý tưởng chủ quan mà người ta có vật ấy, Vì thế, gương diễn tả sự phù du của ảo ảnh vật chất. Gương có thể được đặt trên tay của Quan Âm nghìn mắt nghìn tay hay một vài pho tượng Tôn giả.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Pseudaugochlora erythrogaster nha ?", "role": "user" }, { "content": "Pseudaugochlora erythrogaster là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được E. A. B. Almeida mô tả khoa học năm 2008.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Afranthidium angulatum from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Afranthidium angulatum là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Pasteels mô tả khoa học năm 1984.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Croatia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Croatia (: , phiên âm tiếng Việt hay dùng là \"C'roát-chi-a\" hoặc \"Crô-a-ti-a\"), tên chính thức Cộng hòa Croatia (tiếng Croatia: \"Republika Hrvatska\" ) là một quốc gia nằm ở ngã tư của Trung và Đông Nam Âu, giáp biển Adriatic. Thủ đô Zagreb tạo thành một trong những phân khu chính của đất nước, cùng với hai mươi quận. Croatia có diện tích 56.594 kilômét vuông (21.851 dặm vuông) và dân số năm 2019 là 4,076,246 người, hầu hết dân số là người theo Công giáo La Mã.\nNgười Croatia đến khu vực này vào thế kỷ thứ 6 và tổ chức nhà nước thành hai lãnh địa công tước vào thế kỷ thứ 9. Tomislav I trở thành vị vua đầu tiên vào năm 925, phát triển Croatia thành một vương quốc, giữ được chủ quyền của nó trong gần hai thế kỷ, đạt đến cực thịnh trong thời cai trị của các vị vua Petar Krešimir IV và Zvonimir. Croatia gia nhập một liên minh cá nhân với Vương quốc Hungary năm 1102. Năm 1527, phải đối mặt với cuộc xâm lược của Ottoman, Quốc hội Croatia đã bầu Ferdinand của nhà Habsburg lên ngai vàng Croatia. Trong đầu thế kỷ 19, các phần của đất nước được chia thành Các tỉnh Illyrian của Pháp trong khi đế quốc Áo-Hung chiếm đóng Bosna và Hercegovina - một tranh chấp được giải quyết theo Hiệp ước Berlin (1787). Tháng 10 năm 1918, trong những ngày cuối cùng của Thế chiến thứ nhất, Nhà nước của người Slovene, Croat và Serb được thành lập, độc lập từ Áo-Hungary, được tuyên bố tại Zagreb, và trong tháng 12 năm 1918 nó đã được sáp nhập vào Vương quốc Nam Tư. Sau cuộc xâm lược Nam Tư vào tháng 4 năm 1941, hầu hết lãnh thổ Croatia được kết hợp vào nhà nước được Đức quốc xã hậu thuẫn, dẫn đến sự phát triển của một phong trào kháng chiến và tạo ra Liên bang Croatia, sau chiến tranh trở thành thành viên sáng lập và là thành viên liên bang của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa liên bang Nam Tư. Ngày 25 tháng 6 năm 1991, Croatia tuyên bố độc lập, hoàn toàn có hiệu lực vào ngày 8 tháng 10 cùng năm. Chiến tranh giành độc lập Croatia đã chiến đấu thành công trong bốn năm tiếp theo.\nCroatia là một nước cộng hòa được quản lý theo hệ thống nghị viện và một quốc gia phát triển với mức sống rất cao. Đất nước này là một thành viên của Liên minh châu Âu (EU), Liên Hợp Quốc (UN), Hội đồng Châu Âu, NATO, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), và là thành viên sáng lập của Liên minh Địa Trung Hải. Là một thành viên tham gia tích cực trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, Croatia đã đóng góp quân đội cho sứ mệnh do NATO lãnh đạo ở Afghanistan và giành một vị trí không thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cho nhiệm kỳ 2008–2009. Từ năm 2000, chính phủ Croatia đã liên tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là các tuyến đường và cơ sở giao thông dọc theo hành lang Pan-European.\nNền kinh tế của Croatia bị chi phối bởi các ngành dịch vụ, công nghiệp và nông nghiệp. Du lịch là một nguồn thu ngoại tệ đáng kể, Croatia được xếp hạng trong số 20 địa điểm du lịch nổi tiếng nhất trên thế giới. Nhà nước kiểm soát một phần nền kinh tế, với chi tiêu chính phủ đáng kể. Liên minh châu Âu là đối tác thương mại quan trọng nhất của Croatia. Croatia cung cấp an sinh xã hội, hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn cầu, giáo dục tiểu học và trung học miễn phí, trong khi hỗ trợ văn hóa thông qua nhiều tổ chức công và đầu tư của công ty trên truyền thông và xuất bản.\nLịch sử.\nLịch sử ban đầu.\nVùng đất là Croatia ngày nay đã có người ở trong suốt thời tiền sử. Các hoá thạch của người Neanderthal có niên đại từ giữa Thời kỳ đồ đá cũ đã được khai quật trong khu vực Krapina và Vindija. Những di tích gần đây hơn (hậu Mousterian) của người Neanderthal đã được tìm thấy tại Mujina pećina gần bờ biển.\nĐầu Thời kỳ đồ đá mới, các nền văn hoá Starčevo, Vučedol và Hvar đã xuất hiện rải rác trong khu vực. Thời kỳ đồ sắt còn để lại dấu vết trong văn hoá Hallstatt (người Illyrian thời kỳ đầu) và văn hoá La Tène (người Celt).Sau đó vùng này là nơi sinh sống của người Liburnian và người Illyrian, và các thuộc địa của Hy Lạp đã được thành lập trên hòn đảo Vis (bởi Dionysius I của Syracuse) và Hvar. Năm 9 Công Nguyên lãnh thổ Croatia hiện nay trở thành một phần của Đế chế La Mã. Hoàng đế Diocletian đã xây dựng một cung điện to lớn tại Split nơi ông về nghỉ ngừng các hoạt động chính trị năm 305. Ở thế kỷ thứ V Hoàng đế cuối cùng của La Mã Julius Nepos đã cai trị đế chế nhỏ của mình từ Cung điện của Diocletian trước khi ông bị giết hại năm 480. Buổi đầu lịch sử Croatia chấm dứt với cuộc xâm lược của người Avar ở nửa đầu thế kỷ thứ VII và phá hủy hầu hết mọi thị trấn La Mã. Những người Roma sống sót rút lui chiến lược để bảo vệ các địa điểm trên bờ biển, hòn đảo và các ngọn núi. Thành phố Dubrovnik hiện đại đã được xây dựng bởi những người sống sót đó.\nNgười Croat đã tới vùng đất là Croatia hiện nay từ đầu thế kỷ thứ VII. Họ tổ chức thành hai lãnh địa công tước; Lãnh địa công tước Pannonia ở phía bắc và Lãnh địa công tước Littoral Croatia ở phía nam. Hoàng đế Porphyrogenitus đã viết rằng Porga, công tước của những người Croat Dalmatia, người đã được Hoàng đế Heraclius của Byzantine mời tới Dalmatia, đã yêu cầu Heraclius các giáo viên Thiên chúa giáo. Theo yêu cầu của Heraclius, Giáo hoàng John IV (640-642) đã gửi các giáo viên và những nhà truyền giáo tới Tỉnh Croatia. Những nhà truyền giáo đó đã cải đạo cho Porga, và nhiều người khác dưới quyền ông ta, sang đức tin Thiên chúa năm 640. Sự Thiên chúa giáo hóa người Croat hầu như hoàn thành ở thế kỷ thứ IX. Cả hai lãnh địa công tước đều trở thành chư hầu của Frankish hồi cuối thế kỷ thứ VIII, và cuối cùng trở thành độc lập ở thế kỷ sau đó.\nNhà cai trị Croatia bản xứ đầu tiên được công nhận bởi Giáo hoàng là công tước Branimir, người được Giáo hoàng John VIII gọi là \"dux Croatorum\" (\"công tước của người Croat\") năm 879. Công tước Tomislav của Littoral Croatia là một trong những thành viên có ảnh hưởng nhất của Triều đại Trpimirović. Ông đã thống nhất người Croat tại Dalmatia và Pannonia vào một vương quốc duy nhất năm 925. Nhà nước của Tomislav trải dài từ Biển Adriatic tới sông Drava, và từ sông Raša tới sông Drina. Dưới thời cầm quyền của ông, Croatia trở thành một trong những vương quốc hùng mạnh nhất châu Âu Trung cổ. Tomislav đã đánh bại các cuộc xâm lược của Arpads trên chiến trường và buộc họ phải vượt Drava. Ông cũng sáp nhập một phần của Pannonia. Nó gồm phần giữa các con sông Drava, Sava và Kupa, nên vương quốc của ông đã có biên giới chung với Bulgaria trong một khoảng thời gian. Đây là lần đầu tiên hai vương quốc Croatia được thống nhất, và toàn bộ người Croat ở trong một nhà nước. Liên minh sau này được Byzantine công nhận, và nó trao ngôi báu hoàng gia cho Stjepan Držislav và ngôi báu giáo hoàng cho vua Zvonimir. Vương quốc Croatia trung cổ đạt tới đỉnh điểm phát triển trong thời cầm quyền của các vị vua Petar Krešimir IV (1058–1074) và Zvonimir (1075–1089).\nSau sự mất đi của triều đình cầm quyền Croatia năm 1091, Ladislaus I của Hungary, anh/em của Jelena Lijepa, nữ hoàng cuối cùng của Croatia, trở thành vua của Croatia. Giới quý tộc Croatia tại Littoral phản đối việc này, dẫn tới một cuộc chiến tranh kéo dài 10 năm và việc công nhận vị vua cai trị người Hungary Coloman là vua của Croatita và Hungary theo hiệp ước năm 1102 (thường được gọi là \"Pacta conventa\"). Đổi lại, Coloman hứa duy trì Croatia như một vương quốc riêng biệt, không đưa người Hungary vào định cư tại Croatia, để đảm bảo sự tự quản của Croatia dưới một Ban, và tôn trọng mọi quyền, luật, và những đặc quyền của Vương quốc Croatia. Trong liên minh này, Vương quốc Croatia không bao giờ mất quyền bầu vị vua của riêng mình, dù triều đình cầm quyền đã mất đi. Năm 1293 và 1403 Croatia đã chọn vị vua của họ, nhưng trong cả hai trường hợp Vương quốc Hungary đã tuyên chiến và liên minh được tái lập.\nTrong bốn thế kỷ tiếp theo, Vương quốc Croatia nằm dưới quyền cai quản của Sabor và các Ban được vua Hungary chỉ định. Vương quốc Croatia và Slavonia vẫn là một thực thể lập hiến hầu như tách biệt về pháp luật, nhưng sự xuất hiện của một vị vua Hungary đã đưa lại những hậu quả khác như: sự xuất hiện của chế độ phong kiến và sự trỗi dậy của các gia đình quý tộc địa phương như Frankopan và Šubić. \"Congregatio Regni tocius Sclavonie Generalis\" năm 1273, tài liệu cổ nhất còn lại được viết bởi nghị viện Croatia, có từ giai đoạn này. Những vị vua sau đó đã tìm cách tái lập một số ảnh hưởng họ từng mất trước đây bằng cách trao một số đặc quyền cho các thị trấn. \nGiai đoạn đầu của liên minh riêng giữa Croatia và Hungary chấm dứt năm 1526 với Trận Mohács và sự thất bại của các lực lượng Hungary trước Đế chế Ottoman. Sau cái chết của Vua Louis II, giới quý tộc Croatia trong nghị viện Cetingrad đã lựa chọn nhà Habsburg làm những vị vua cai trị mới của Vương quốc Croatia, dưới điều kiện rằng họ phải cung cấp quân đội và tài chính cần thiết để bảo vệ Croatia chống lại Đế chế Ottoman.\nThành phố Dubrovnik được thành lập thế kỷ thứ VII sau khi những kẻ xâm lược Avar và Slavơ phá huỷ thành phố Epidaurum La Mã. Những người Roma sống sót bỏ trốn tới một hòn đảo nhỏ gần bờ biển nơi họ thành lập một khu định cơ mới. Trong thời Thập tự chinh lần thứ tư thành phố này rơi vào tầm kiểm soát của Cộng hoà Venice cho tớihiệp ước Zadar năm 1358, khi Venice bị vương quốc Croato-Hungarian đánh bại, mất quyền kiểm soát Dalmatia và Cộng hoà Dubrovnik trở thành một vương quốc chư hầu. Trong suốt 450 năm tiếp theo Cộng hoà Dubrovnik đầu tiên là chư hầu của Ottoman và sau đó của Triều đại Habsburg. Trong thời gian này nước cộng hoà trở nên giàu có nhờ thương mại.\nNước cộng hoà trở thành nơi xuất bản quan trọng nhất của văn học Croatia trong các giai đoạn Phục hưng và Baroque. Bên cạnh những nhà thơ và các tác gia như Marin Držić và Ivan Gundulić, những người mà tác phẩm của họ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển văn hoá Croatia, người nổi tiếng nhất Cộng hoà Dubrovnik là nhà khoa học Ruđer Josip Bošković, ông từng là một thành viên của Hội Hoàng gia và Viện hàn lâm Khoa học Nga. Nước cộng hoà tồn tại tới năm 1808 khi nó bị Napoleon sáp nhập. Ngày nay thành phố Dubrovnik là một địa điểm trong danh sách Địa điểm Di sản Thế giới của UNESCO và là một địa điểm du lịch nổi tiếng.\nNgay sau Trận Mohács, triều đình Habsburg đã không thành công trong việc ổn định các biên giới giữa Đế chế Ottoman và Vương quốc Croatia bằng cách lập ra một captaincy tại Bihać. Tuy nhiên, năm 1529, quân đội Ottoman đã tràn qua khu vực và chiếm Buda và phong toả Vienna; một sự kiện sẽ dẫn tới sự hỗn loạn và bạo lực tại các vùng biên giới Croatia (xem Các cuộc chiến tranh Ottoman tại châu Âu). Sau sự thất bại của những chiến dịch quân sự đầu tiên, Vương quốc Croatia bị chia thành các đơn vị quân sự và dân sự năm 1553. Các đơn vị quân sự trở thành Croatian Krajina và Slavonian Krajina và cả hai cuối cùng trở thành các phần của Biên giới Quân sự Croatia nằm trực tiếp dưới sự kiểm soát của Vienna. Những cuộc cướp phá của Ottoman vào trong lãnh thổ Croatia kéo dài tới tận Trận Sisak năm 1593, sau đó các biên giới đã trở nên ổn định trong một khoảng thời gian. Vương quốc thời kỳ ấy được gọi là \"Reliquiae reliquiarum olim inclyti Regni Croatiae\" (\"Tàn tích của tàn tích của Vương quốc Croatia nổi tiếng một thời\"). Một trận đánh nổi tiếng trong thời kỳ này là Trận Szigetvár, khi 2,300 binh sĩ dưới sự lãnh đạo của ban Nikola Šubić Zrinski chống cự trong hai tháng trước 100.000 lính Ottoman dưới sự chỉ huy của hoàng đế Suleiman I, chiến đấu cho đến người cuối cùng. [[Hồng y]] Richelieu được thông báo là đã gọi sự kiện này là \"trận đánh cứu vớt nền văn minh.\"\nTrong cuộc Đại chiến Thổ Nhĩ Kỳ, Slavonia đã được giành lại nhưng vùng đồi núi phía tây Bosnia, từng là một phần của Croatia cho tới cuộc chinh phục Ottoman, vẫn ở bên ngoài quyền kiểm soát của Croatia và biên giới hiện tại, nước này có hình dạng giống hình lưỡi liềm hay móng ngựa, đây là một di tích của lịch sử. Phần phía nam của 'móng ngựa' được thành lập bởi cuộc chinh phục Venetian sau cuộc Phong toả Zara và được coi là những cuộc chiến tranh thế kỷ XVII-XVIII với người Ottoman. Lý do về pháp lý (De jure) cho sự mở rộng Venetian là quyết định của vua Croatia, Ladislas của Naples, bán các quyền của mình với Dalmatia cho Venice năm 1409 .\nTrong hơn hai thế kỷ của các cuộc Chiến tranh Ottoman, Croatia đã trải qua những thay đổi nhân khẩu to lớn. Người Croat đã rời các vùng đất ven sông Gacka, Lika và Krbava, Moslavina tại Slavonia và một vùng đất ngày nay ở phía tây bắc Bosnia để đi về phía Áo nơi họ vẫn cư ngụ và ngày nay người Croat Burgenland là hậu duệ trực tiếp của những người định cư đó. Để thay thế những người Croat đã dời đi, triều đình Habsburg kêu gọi những dân cư Chính thống giáo của Bosnia và Serbia phục vụ hoạt động quân sự tại Croatiavà Slavonian Krajina. Người Serbia dần bắt đầu tới trong thế kỷ XVI, với đỉnh điểm là các cuộc Đại Di cư Serb năm 1690 và 1737-39. Các quyền lợi và nghĩa vụ của dân cư mới của biên giới quân sự được quyết định với Statuta Valachorum năm 1630.\nHồi phục quốc gia.\nSự hồi phục quốc gia tại Croatia bắt đầu năm 1813 khi giám mục Zagreb Maksimilijan Vrhovac ra một lời khẩn cầu cho việc sưu tập \"báu vật quốc gia\". Đầu những năm 1830, một nhóm tác gia Croatia trẻ đã tụ tập Zagreb và thành lập phong trào Illyrian để đổi mới quốc gia và thống nhất mọi thực thể Nam Slavơ dưới Triều đình Habsburg. Mục tiêu lớn nhất của người Illyrian là việc thành lập một ngôn ngữ tiêu chuẩn như một đối trọng với tiếng Hungary, và ủng hộ văn học Croatia và văn hoá chính thức. Các thành viên quan trọng của phong trào này là Bá tước Janko Drašković, người khởi động phong trào khi viết một tờ rơi năm 1832, Ljudevit Gaj người được chính phủ hoàng gia Habsburg cho phép in tờ báo đầu tiên bằng tiếng Croatia, Antun Mihanović, người viết lời cho quốc ca Croatia, Vatroslav Lisinski, người soạn vở opera đầu tiên bằng tiếng Croatia, \"Ljubav i zloba\" (\"Tình yêu và Hiểm ác\", 1846), và nhiều người khác.\nLo ngại đầu tiên về người Hungary và sau đó là áp lực đồng hoá của triều đình Habsburg, Vương quốc Croatia đã luôn từ chối thay đổi vị thế ngôn ngữ chính thức của tiếng Latinh cho tới tận giữa thế kỷ XIX. Mãi tới ngày 2 tháng 5 năm 1843 tiếng Croatia lần đầu tiên mới được sử dụng trong nghị viện, cuối cùng trở thành ngôn ngữ chính thức năm 1847 vì sự nổi tiếng của phong trào Illyrian.\nThậm chí với một cộng đồng Slavơ (người Croatia) lớn, Dalmatia vẫn duy trì các cộng đồng Italia lớn tại bờ biển (tại các thành phố và hòn đảo, tập trung lớn nhất tại Istria). Theo cuộc điều tra dân số Áo-Hung năm 1816, 22% dân số Dalmatian là người nói tiếng Italia. Bắt đầu từ thế kỷ XIX, hầu hết người Dalmatia Italia dần bị đồng hoá vào văn hoá và ngôn ngữ Croatia đa số.\nLịch sử hiện đại.\nCâu trả lời của Croatia cho cuộc cách mạng Hungary năm 1848 là sự tuyên chiến. Các lực lượng Áo, Croatia và Nga cùng nhau đánh bại quân đội Hungary năm 1849 và sau 17 năm được ghi nhớ tại Croatia và Hungary như là sự Đức hoá. Sự thất bại sau cùng của chính sách này dẫn tới Thoả hiện Áo-Hung năm 1867 và việc thành lập một liên minh triều đình giữa Đế chế Áo và Vương quốc Hungary. Hiệp ước không giải quyết câu hỏi về vị thế của Croatia. Năm sau đó nghị viện Croatia và Hungary lập ra một hiến pháp cho liên minh và Vương quốc Croatia-Slavonia và Vương quốc Hungary.\nSau khi Đế chế Ottoman mất quyền kiểm soát quân sự với Bosnia và Herzegovina, Áo-Hung xoá bỏ Croatian Krajina và Slavonian Krajina, khôi phục lại các lãnh thổ cho Croatia năm 1881. Ở nửa sau thế kỷ XIX các đảng chính trị ủng hộ Hungary khiến người Croat chống lại người Serb với mục đích kiểm soát nghị viện. Chính sách này thất bại năm 1906 khi một liên minh Croat-Serb thắng cử. Tình hình chính trị mới xuất hiện kéo dài không thay đổi cho tới trước Thế chiến I.\nNgày 29 tháng 10 năm 1918,\"Sabor\" (nghị viện) Croatia tuyên bố độc lập, lập ra Nhà nước của người Slovene, người Croat và người Serb mới. Bị quân đội Italia tràn vào từ phía nam và phía tây gây áp lực, Hội đồng quốc gia (Narodno vijeće) bắt đầu những cuộc đàm phán mưu mô với Vương quốc Serbia vào ngày 23 tháng 11 năm 1918, một phái đoàn được gửi tới Belgrade với mục tiêu tuyên bố một liên minh. Đoàn đại biểu Hội đồng quốc gia chuyển 11 điểm cần được thực hiện để tạo lập một nhà nước tương lai. Quan trọng nhất trong số đó là điểm đầu tiên, nói về sự cần thiết của một hiến pháp cho nhà nước mới, một đề xuất đã được hai phần ba số đại biểu thông qua. Cuối cùng, một hiến pháp cho một nhà nước tập trung đã được thông qua với đa số 50% + 1 phiếu và dẫn tới sự chấm dứt quyền tự trị nhà nước. Ngày 1 tháng 12 năm 1918, Vương quốc của người Serb, người Croat, và Slovene mới, cũng được gọi là Vương quốc Nam Tư, được thành lập. Quyết định này đã dẫn tới sự phản đối của người Croat, và họ đã bắt đầu một quá trình chuyển dịch chính trị hướng tới sự tái lập một nhà nước có chủ quyền bằng sự lãnh đạo của Đảng Nông dân Croatia. \nTình hình chính trị không lành mạnh tại Nam Tư bắt đầu xấu đi sau khi Stjepan Radić, chủ tịch CPP, bị giết hại trong tòa nhà nghị viện Nam Tư năm 1928 bởi cá nhân cực đoan quốc gia Serbia Puniša Račić.\nGiai đoạn hỗn loạn sau đó chấm dứt năm sau khi Vua Alexander xóa bỏ Hiến pháp, tạm đình chỉ Nghị viện và đưa ra một chế độ độc tài cá nhân. Bốn năm sau đó của chế độ Nam Tư được Albert Einstein miêu tả là một \"tình trạng bạo lực kinh khủng được thực hiện chống lại người Croatia\". Trong thời độc tài, Vladko Maček, lãnh đạo Đảng Nông dân Croatia, bị bỏ tù, và chỉ được phóng thích sau khi vua Alexander bị giết trong một âm mưu do phong trào cực đoan cánh hữu Croatia, Ustaše, thực hiện. Ngay khi Maček được thả, tình hình chính trị được khôi hục như trước vụ ám sát Stjepan Radić, với những yêu cầu tiếp tục của người Croatia về chủ quyền. Vấn đề Croatia chỉ được giải quyết ngày 26 tháng 8 năm 1939 bởi Thoả thuận Cvetković-Maček, khi Croatia được trao chủ quyền và được mở rộng biên giới và Maček trở thành phó thủ tướng Nam Tư. Nền hòa bình sau đó không kéo dài lâu, và chấm dứt với cuộc xâm lược của Đức năm 1941.\nCuộc xâm lược của Đức ngày 6 tháng 4 năm 1941 thắng lợi chỉ sau chưa tới mười ngày, chấm dứt với sự đầu hàng vô điều kiện của Quân đội Hoàng gia Nam Tư ngày 17 tháng 4. Lãnh thổ Croatia, Bosnia và Herzegovina và vùng Syrmia tại Vojvodina trở thành một nhà nước bù nhìn của Phát xít Đức được gọi là Nhà nước Croatia Độc lập. Istria, thành phố cảng của Rijeka, và một phần của Dalmatia tới tận Split bị Italia chiếm đóng. Baranja và Medjumurje bị Hungary chiếm. Dù Ustashe mới chỉ quay lại sau khi bị trục xuất, họ đã được trao trách nhiệm điều khiển chế độ mới, những kẻ chiếm đóng Phe trục ban đầu đề xuất trao chức lãnh đạo cho Vladko Maček, lãnh đạo Đảng Nông dân Croatia (HSS), nhưng ông từ chối. Chỉ một ngày sau khi tiến vào Zagreb, ngày 17 tháng 4 năm 1941, Ante Pavelić tuyên bố rằng mọi người đã xúc phạm hay tìm các xúc phạm chống lại nhà nước Croatia đều bị tuyên án phản bội - một tội danh sẽ bị tử hình. Chế độ Ustashe đưa ra các điều luật chống Semitic kiểu Nuremberg, và cũng tiến hành các cuộc thảm sát chủ yếu chống lại người Serb và những sắc tộc phi Croat khác, cũng như thành lập các trại tập trung như trại tập trung tại Jasenovac và Stara Gradiska nơi những người chống đối chế độ Ustashe và những người 'gây phiền phức' khác bị giam giữ. Các tu sĩ Cơ đốc cũng liên quan tới phong trào Ustashe, đặc biệt vị Cha Miroslav Filipović khét tiếng bị lột áo thầy tu. Tuy nhiên, những người khác như Tổng giám mục Zagreb Alojzije Stepinac không chỉ lên án các tội ác của Ustashe trong các bài giảng của mình mà còn cung cấp nơi trú ngụ và bảo vệ cho những người Serb và người Do Thái bị truy đuổi. Thư viện Ảo Do Thái ước tình rằng từ tới người Serb Croatia bị giết hại tại Jasenovac và khoảng tới người Serb là nạn nhân của toàn bộ chiến dịch diệt chủng.\nNhững tàn tích của Quân đội Hoàng gia Nam Tư, sau này được tổ chức lại trong Chetnik Serbia, kháng chiến chống lại sự chiếm đóng Phát xít và những kẻ cộng tác Ustashe của chúng, nhưng Chetnik Bảo hoàng Nam Tư nhanh chóng hợp tác với Phát xít Đức và Phát xít Ý. Cuộc nội chiến bùng nổ, với mọi phe phái đánh lẫn nhau. Sau này, trước \"Chiến dịch Barbarossa\" tấn công Liên Xô đầy bất ngờ của Hitler, một cuộc nổi dậy lớn diễn ra ngày 22 tháng 6 năm 1941 với việc tạo lập 1st Sisak Partisan Detachment. Giới lãnh đạo phong trào du kích Nam Tư nằm trong tay Josip Broz Tito người Croat, chính sách anh em và thống nhất của ông cuối cùng không những chỉ đánh bại những kẻ chiếm đóng Phe trục, mà còn nhiều kẻ cộng tác của chúng trong các lực lượng vũ trạng của Nhà nước Croatia Độc lập và những kẻ phản bội khác (có mặt trong mọi nhóm quốc gia và xã hội Nam Tư). Thắng lợi của những người du kích Nam Tư trước những kẻ chiếm đóng Phát xít và đồng minh của chúng dẫn tới các cuộc thảm sát những người Croatian Domobran (Home Guard) và Ustashe, họ bị Quân đoàn số 8 của Anh trục xuất khỏi Áo. Trong thập kỷ sau Thế chiến II, tới 350.000 người sắc tộc Italia rời bỏ Nam Tư.\nSố lượng nạn nhân của Thế chiến II tại Nam Tư vẫn là một nguồn gây tranh cãi lớn giữa những nhà sử học và các viện hàn lâm quốc gia Serbia và Croatia một bên và các nhà nghiên cứu độc lập một bên, đáng chú ý nhất là Vladimir Žerjavić (một người Croat) và Bogoljub Kočović (một người Serb), và những người khác.\nCroatia hiện đại được thành lập trên các nguyên tắc chống phát xít AVNOJ của du kích trong thế chiến II, và nó trở thành một nước cộng hòa lập hiến của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Nam Tư. Một chế độ chuyên chính vô sản được thành lập, nhưng vì sự chia rẽ Tito-Stalin, tự do kinh tế và cá nhân tại đây tốt hơn tại Khối Đông Âu. Từ những năm 1950, nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Croatia có quyền tự trị dưới sự quản lý của giới cộng sản tinh hoa địa phương, nhưng vào năm 1967 nhóm nhà thơ và nhà ngôn ngữ Croatia có ảnh hưởng đã xuất bản một Tuyên ngôn về Vị thế và Tên của Ngôn ngữ Croatia Tiêu chuẩn. Sau những mục tiêu yêu nước năm 1968 tài liệu đó biến hình thành một phong trào chung Croatia đòi những quyền thêm nữa cho Croatia, quyền dân sự lớn hơn và nhữn yêu cầu phi tập trung hoá kinh tế. Cuối cùng ban lãnh đạo Nam Tư coi vụ Mùa xuân Croatia là một sự tái lập chủ nghĩa quốc gia Croatia, giản tán phong trào như chủ nghĩa Xô vanh và bắt giữ hầu hết các lãnh đạo quan trọng. Năm 1974, một hiến pháp mới của Liên bang Nam Tư được phê chuẩn trao nhiều quyền tự trị hơn cho các nước cộng hòa riêng biệt, và vì thế đã hoàn thành các mục tiêu chính của phong trào Mùa xuân Croatia.\nTình cảm quốc gia dẫn tới sự chấm dứt Liên bang Nam Tư, đã lan rộng trong nhiều sắc tộc trong một số năm. Những yêu cầu của người Albani năm 1981 về Kosovo đã bị tách khỏi Serbia và chuyển thành một nước cộng hòa hợp thành bên trong Nam Tư đã dẫn tới những cuộc bạo loạn, và thái độ tương tự cũng xảy ra bên trong các nhà nước khác với cuộc Bản ghi nhớ SANU của Serbia năm 1986; Croatia và Slovenia cũng phản ứng tiêu cực năm 1989 sau khi lãnh đạo Serbia Slobodan Milošević tổ chức những cuộc đảo chính tại Vojvodina, Kosovo và Montenegro để lập ra những chính quyền sẽ trung thành với các mục tiêu của ông.\nDưới ảnh hưởng của chiến dịch tuyên truyền của Slobodan Milošević, tầm quan trọng của việc ai sẽ giành thắng lợi trong cuộc bầu cử đa đảng tại Croatia trong 50 năm đã giảm bớt. Có nghĩa là, người Serb đã có ảnh hưởng với cả lãnh đạo quốc gia người Croatia Franjo Tuđman và lãnh đạo cộng sản Ivica Račan. Franjo Tuđman, người giành thắng lợi trong cuộc bầu cử càng làm tình hình thêm nghiêm trọng. Người Serb ở Croatia rời nghị viện Croatia và lập ra \"Hiệp hội các Vùng đô thị Bắc Dalmatia và Lika\" tại Knin. Sau này nó trở thành Republika Srpska Krajina. Về những sự kiện xảy ra những năm 1990-92, Milan Babić, tổng thống Republika Srpska Krajina, sau này tuyên bố rằng ông đã \"bị ảnh hưởng mạnh và bị dẫn dắt sai lầm bởi sự tuyên truyền của Serbia\". Những sự kiện đó lên tới đỉnh điểm với cuộc Chiến tranh giành độc lập toàn lực của Croatia trong khoảng thời gian 1991 và 1995. Cuộc xung đột chấm dứt với Chiến dịch Cơn bão (được gọi trong tiếng Croatia là \"Oluja\") vào mùa hè năm 1995. Những sự kiện của tháng 8 năm 1995 vẫn là chủ đề của nhiều vụ xét xử tại Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ, liên quan tới chiến thắng của Quân đội Croatia và việc trục xuất sắc tộc Serb .\nCroatia được quốc tế công nhận ngày 15 tháng 1 năm 1992 bởi Liên minh châu Âu và Liên hiệp quốc. Trong thời điểm đó, Croatia kiểm soát chưa tới hai phần ba lãnh thổ theo pháp lý của mình. Quốc gia đầu tiên công nhận Croatia là Iceland ngày 19 tháng 12 năm 1991.\nĐịa lý.\nCroatia nằm ở Trung và Đông Nam Âu, giáp với Hungary về phía đông bắc, Serbia về phía đông, Bosnia và Herzegovina ở phía đông nam, Montenegro về phía đông nam, biển Adriatic ở phía tây nam và Slovenia về phía tây bắc. Nó nằm giữa vĩ độ 42° và 47°N, kinh độ 13° và 20°E. Một phần của lãnh thổ ở cực nam xung quanh Dubrovnik thực tế là một lãnh thổ được bao bọc bởi quốc gia khác, kết nối với phần còn lại của đất liền bởi lãnh hải, nhưng tách khỏi đất liền bởi một dải bờ biển ngắn thuộc Bosna và Hercegovina xung quanh Neum.\nLãnh thổ Croatia khoảng (21.851 dặm vuông), bao gồm (21.782 dặm vuông) đất và (49 dặm vuông) nước. Đây là quốc gia lớn thứ 127 trên thế giới. Độ cao từ dãy núi Dãy núi Dinaric với điểm cao nhất là đỉnh Dinara ở độ cao 1.831 m (6,007 feet) gần biên giới nước này với Bosna và Hercegovina ở phía nam đến bờ biển Adriatic tạo thành toàn bộ biên giới phía tây nam của nó. Croatia có hơn một ngàn đảo (kể cả đảo nhỏ) có người ở, khác nhau về kích thước, 48 trong số đó là đảo có người sinh sống vĩnh viễn. Các đảo lớn nhất là Cres và Krk, mỗi trong số chúng đều có diện tích khoảng (156 dặm vuông).\nPhần đồi núi phía bắc Hrvatsko Zagorje và các vùng đồng bằng phẳng của Slavonia ở phía đông là một phần của lưu vực sông Pannonian, đi qua các con sông lớn như Danube, Drava, Kupa và Sava. Sông Danube, con sông dài thứ hai của châu Âu, chảy qua thành phố Vukovar ở cực đông và tạo thành một phần biên giới với Serbia. Các khu vực trung tâm và phía nam gần bờ biển Adriatic và các đảo bao gồm các ngọn núi thấp và cao nguyên rừng. Tài nguyên thiên nhiên được tìm thấy trong nước với số lượng đủ lớn cho sản xuất bao gồm dầu mỏ, than, bô xít, quặng sắt, calci, thạch cao, nhựa đường tự nhiên, silic, mica, đất sét, muối và thủy điện.\nĐịa hình cat-xtơ chiếm khoảng một nửa Croatia và đặc biệt nổi bật ở dãy núi Dinaric Alps. Có một số hang động sâu ở Croatia, 49 trong số đó là các hang sâu hơn 250 m (820,21 ft), 14 trong số đó sâu hơn 500 m (1.640,42 ft) và sâu hơn 1.000 m (3.280,84 ft). Các hồ nổi tiếng nhất của Croatia là hồ Plitvice, một hệ thống gồm 16 hồ, được nối với nhau bằng thác nước trên các thác đá dolomit và đá vôi. Các hồ nổi tiếng với màu sắc đặc biệt, từ màu ngọc lam đến xanh bạc hà, xám hoặc xanh dương..\nCác hạt.\nCroatia được chia thành 20 hạt (\"županija\") và thành phố thủ đô Zagreb:\nChính phủ và chính trị.\nTừ khi thông qua Hiến pháp năm 1990, Croatia đã trở thành một chế độ dân chủ. Từ năm 1990 đến năm 2000 họ có một hệ thống bán tổng thống, và từ năm 2000 họ có một hệ thống nghị viện.\nTổng thống của nước Cộng hoà (\"Predsjednik\") là Nguyên thủ quốc gia, được bầu lên trực tiếp với nhiệm kỳ năm năm và bị hạn chế bởi Hiến pháp chỉ được phục vụ tối đa hai nhiệm kỳ. Ngoài tư cách tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, tổng thống có trách nhiệm thủ tục chỉ định Thủ tướng với sự ưng thuận của Nghị viện, và có một số ảnh hưởng trên chính sách đối ngoại. Nơi cư ngụ chính thức của tổng thống là Predsjednički dvori. Ngoài ra, tổng thống còn có các nhà nghì trên các hòn đảo Vanga (đảo Brijuni) và đảo Hvar.\nNghị viện Croatia (\"Sabor\") là một cơ cấu lập pháp lưỡng viện (một viện thứ hai, \"Viện của các Hạt\", được lập ra theo Hiến pháp năm 1990, đã bị xoá bỏ năm 2001). Số lượng thành viên của Sabor có thể thay đổi từ 100 đến 160; tất cả họ đều được dân chúng bầu ra với nhiệm kỳ năm năm. Các phiên họp toàn thể của Sabor diễn ra từ ngày 15 tháng 1 đến 15 tháng 6 và từ 15 tháng 9 đến 15 tháng 12.\nChính phủ Croatia (\"Vlada\") do Thủ tướng lãnh đạo, dưới thủ tướng là hai phó thủ tướng và mười bốn bộ trưởng chịu trách nhiệm về các lĩnh vực riêng biệt. Nhánh hành pháp chịu trách nhiệm đề xuất pháp luật và một ngân sách, thực hiện luật pháp, và hướng dẫn các chính sách đối nội và đối ngoại của nước cộng hoà. Trụ sở chính thức của chính phủ ở tại Banski dvori.\nLuật pháp.\nCroatia có hệ thống tư pháp ba nhánh, gồm Toà án Tối cao, các Toà án Hạt, và các Toà án Đô thị. Toà án Hiến pháp xét xử các vấn đề liên quan tới Hiến pháp. Việc thực thi pháp luật tại Croatia là trách nhiệm của lực lượng cảnh sát Croatia, nằm dưới sự kiểm soát của Bộ Nội vụ. Những năm gần đây, lực lượng này đang thực hiện một cuộc cải cách với sự hỗ trợ từ các cơ quan quốc tế, gồm Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu từ khi tổ chức này thực hiện nhiệm vụ tại Croatia từ ngày 18 tháng 4 năm 1996.\nNhân khẩu.\nCroatia có đa số dân là người Croat (89.6%), các nhóm thiểu số gồm người Serb (4.5%), người Bosnia, người Hungary, người Italia, người Slovene, người Đức, người Séc, người Romani và các nhóm khác (5.9%). Trong hầu hết thế kỷ XX dân số Croatia đã tăng từ 3.430.270 năm 1931 lên 4.784.265 năm 1991. Tỷ lệ tăng trưởng dân số tự nhiên hiện ở mức âm với sự chuyển tiếp nhân khẩu hoàn thành trong thập niên 1970. Tuổi thọ trung bình là 75.1, và tỷ lệ biết chữ là 98.1%. Trong những năm gần đây chính phủ gặp sức ép phải thêm 40% giới hạn giấy phép làm việc mỗi năm cho lao động người nước ngoài và theo chính sách nhập cư của họ nước này đang tìm cách thu hút những người đã di cư hồi hương . Các tôn giáo chính của Croatia là Cơ đốc giáo La Mã 88%, Chính thống giáo 4.4%, và các phái Thiên chúa giáo khác 0.4%, Hồi giáo 1.3%, khác và không xác định 0.9%, không theo tôn giáo 5.2%.\nTrong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX dân số Croatia đã ngừng tăng trưởng bởi cuộc Chiến tranh giành độc lập Croatia. Trong cuộc chiến, nhiều nhóm dân cư đã bị chuyển chỗ ở và sự di cư tăng lên. Năm 1991, tại các vùng chủ yếu là người Serb, hơn 80.000 người Croat hoặc đã bị các lực lượng người Serb Croatia buộc rời bỏ nhà cửa hoặc buộc phải bỏ chạy do tình trạng bạo lực. Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh năm 1995, hơn 120.000 người Serb, và có lẽ khoảng 200.000 người đã bỏ chạy trước thắng lợi của các lực lượng Croatia. Chỉ một nhóm nhỏ người Serb quay lại nhà mình từ năm 1995, theo Human Rights Watch. Người Serb còn ở lại tại Croatia không sống tại các cao nguyên và vùng nội địa Dalmatia mà tại các thành phố lớn và các khu trung tâm của Croatia. Người Serb đã bị chính phủ Croatia cho tái định cư tại các vùng họ từng sinh sống trước kia.\nKinh tế.\nTư nhân hoá và định hướng theo một nền kinh tế thị trường bắt đầu từ thời Chính phủ Croatia mới khi cuộc chiến tranh bùng nổ năm 1991. Vì hậu quả chiến tranh, cơ sở hạ tầng kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng, đặc biệt ngành công nghiệp du lịch mang lại nhiều lợi nhuận. Từ năm 1989 đến năm 1993, GDP giảm 40.5%. Khi cuộc chiến tranh chấm dứt năm 1995, ngành du lịch và nền kinh tế Croatia hồi phục ở mức độ vừa phải. Tuy nhiên, tham nhũng, cronyism, và sự thiếu hụt minh bạch đã cản trở ý nghĩa của cuộc cải cách kinh tế, cũng như nguồn đầu tư nước ngoài.\nKinh tế Croatia xoay chuyển mạnh năm 2000 khi ngành du lịch phát triển trở lại. Kinh tế mở rộng năm 2002, được kích thích bởi một sự bùng nổ tín dụng từ các ngân hàng mới tư nhân hoá và được bơm vốn từ nước ngoài, một số khoản đầu tư tư bản, đáng chú ý nhất là xây dựng đường sá, càng làm du lịch phát triển, và cung cấp cho các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ.\nCroatia có một nền kinh tế thị trường có thu nhập cao. Dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho thấy GDP danh nghĩa của Croatia ở mức $58.558 tỷ hay $13.199 trên đầu người, năm 2007. IMF dự báo cho năm 2008 là $69.332 tỷ hay $15.628 trên đầu người. Theo sức mua tương đương, tổng GDP ở mức $78.665 tỷ năm 2007, tương đương với $17.732 trên đầu người. Năm 2008, dự báo nó sẽ ở mức $82.272 tỷ, hay $18.545 trên đầu người.\nTheo dữ liệu của Eurostat, GDP theo sức mua tương đương của Croatia ở mức 63% mức trung bình của EU năm 2008. Tăng trưởng GDP thực năm 2007 là 6.0%. Tổng lương trung bình của một người Croat trong chín tháng đầu năm 2008 là 7,161 kuna (US$ 1,530) mỗi tháng Năm 2007, tỷ lệ thất nghiệp theo định nghĩa của Tổ chức Lao động Quốc tế ở mức 9.1%, sau khi giảm ổn định từ 14.7% năm 2002. Tỷ lệ thất nghiệp được đăng ký cao hơn, ở mức 13.7% vào tháng 12 năm 2008.\nNăm 2007, 7.2% sản xuất kinh tế thuộc nông nghiệp, 32.8% bởi công nghiệp và 60.7% bởi lĩnh vực dịch vụ. Theo dữ liệu năm 2004, 2.7% lực lượng lao động được sử dụng cho nông nghiệp, 32.8% cho công nghiệp và 64.5% trong ngành dịch vụ.\nLĩnh vực công nghiệp chủ yếu là ngành đóng tàu, chế biến thực phẩm và hoá chất công nghiệp. Du lịch là nguồn thu đáng kể trong mùa hè với tổng cộng hơn 11 triệu du khách năm 2008 tạo ra doanh thu €8 tỷ. Croatia được xếp hạng 18 về các điểm thu hút khách du lịch nhiều nhất thế giới. Năm 2006 Croatia xuất khẩu hàng hoá với tổng giá trị $10.4 tỷ (FOB) ($19.7 tỷ gồm xuất khẩu dịch vụ).\nNhà nước Croatia vẫn kiểm soát một phần khá lớn nền kinh tế, với chi tiêu chính phủ chiếm tới 40% GDP. Một số ngành công nghiệp lớn, thuộc sở hữu nhà nước, như các xưởng đóng tàu, vẫn dựa vào các khoản trợ cấp của chính phủ, loại bỏ đầu tư vào giáo dục và công nghệ cần thiết để đảm bảo tính cạnh tranh về lâu dài của nền kinh tế.\nĐáng lo ngại nhất là sự trì trệ của hệ thống tư pháp, cộng với tính kém hiệu quả của lĩnh vực hành chính công, đặc biệt các vấn đề sở hữu đất đai và tham nhũng. Một vấn đề lớn khác là sự tăng trưởng nhanh chóng khoản nợ quốc gia đã đạt mức 34 tỷ euro hay 89.1% GDP. Vì các vấn đề này, các nghiên cứu cho thấy dân cư Croatia nói chung không hy vọng nhiều vào tương lai nền kinh tế quốc gia.\nCroatia đã vượt qua khá tốt cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, nhưng đối mặt với những thách thức khá lớn trong năm 2009 chủ yếu vì sự suy giảm các mặt hàng xuất khẩu chính và lĩnh vực du lịch của nước này. Sự mất cân bằng thương mại với nước ngoài và nợ nước ngoài cao cũng là những nguy cơ, bởi việc tiếp cận các khoản vay từ bên ngoài sẽ bị hạn chế nhiều.\nNước này đang là một thành viên của Liên minh châu Âu, đối tác thương mại lớn nhất. Tháng 2 năm 2005, Thoả thuận Ổn định và Hợp tác với EU chính thức có hiệu lực.\nTính đến năm 2016, GDP của Croatia đạt 49.855 USD, đứng thứ 82 thế giới và đứng thứ 27 châu Âu.\nCơ sở hạ tầng.\nMảng sáng trong sự phát triển cơ sở hạ tầng của Croatia gần đây là sự phát triển nhanh chóng của mạng lưới đường cao tốc, những kế hoạch phát triển đã bắt đầu và được thực hiện từ thập niên 1970s, nhưng chỉ trở thành hiện thực sau khi nước này giành được độc lập bởi các kế hoạch đường sá có tầm quan trọng 'quốc gia' của Chính phủ Nam Tư (khi đó).\nCroatia hiện có hơn 1,200 km đường cao tốc nối Zagreb với hầu hết các vùng khác. Các đường cao tốc nổi tiếng nhất là A1, nối Zagreb với Split và A3, chạy xuyên đông-tây qua tây bắc Croatia và Slavonia. Hầu hết các tuyến đường đều phải trả phí, ngoại trừ đường rẽ Zagreb và các đoạn của A3, A7, B8 và B9. Cũng có một mạng lưới đường nhỏ và khó đi hơn nối các tuyến đường cao tốc với nhau. Một trong các tuyến đường được sử dụng nhiều nhất là đường B28, nối A4 gần Zagreb với Bjelovar, nhưng cũng là shunpiking chính thay thế cho A3. Mạng lưới đường cao tốc Croatia được coi là có chất lượng tổng thể tốt và an ninh tuyệt vời, giành được nhiều giải thưởng của EUROTAP.\nCroatia có một mạng lưới đường sắt dày đặc, dù vì những hoàn cảnh lịch sử, một số vùng (đáng chú ý là Istria và thậm chí cả Dubrovnik) không có tuyến đường sắt tiếp cận nếu không phải đi qua nước khác. Cần có sự đầu tư nghiêm túc vào mạng lưới đường sắt trong những thập kỷ tới để nó có được tiêu chuẩn châu Âu cả về tốc độ và hiệu quả sử dụng. Tất cả các dịch vụ đường sắt đều do Croatian Railways () điều hành. Mạng lưới xe bus giữa các thành phố (do các doanh nghiệp tư nhân điều hành) phát triển rất mạnh, với mức độ bao phủ và thời gian hoạt động ở mức cao hơn đường sắt.\nCroatia có ba sân bay quốc tế lớn, nằm ở Zagreb, Split và Dubrovnik. Các sân bay quan trọng khác gồm Zadar, Rijeka (trên đảo Krk), Osijek, Bol, Lošinj và Pula. Croatia Airlines là hãng hàng không quốc gia. Cơ quan Hàng không Liên bang Hoa Kỳ (FAA) coi Cơ quan Hàng không Dân dụng Croatia là không tương thích với Tổ chức Hàng không Dân dụng Thế giới (ICAO) về các tiêu chuẩn an toàn. Một hệ thống phà dày đặc, được điều hành bởi Jadrolinija, nối các hoàn đảo của Croatia và nối các thành phố ven biển. Croatia cũng có dịch vụ phà tới Ý.\nGiáo dục.\nGiáo dục phổ thông tại Croatia bắt đầu từ tuổi lên sáu và gồm tám lớp. Năm 2007 một điều luật được thông qua để tăng độ tuổi giáo dục miễn phí, nhưng không bắt buộc lên mười tám tuổi. Giáo dục cưỡng bách lên tới mười tám tuổi (Trường Cấp hai)\nGiáo dục cấp hai được thực hiện bởi các trường thể dục và các trường dạy nghề.\nCroatia có tám trường đại học, Đại học Zagreb, Đại học Split, Đại học Rijeka, Đại học Osijek, Đại học Zadar, Đại học Dubrovnik, Đại học Pula và Đại học Quốc tế Dubrovnik.\nĐại học Zadar, Đại học đầu tiên tại Croatia, được thành lập năm 1396 và vẫn hoạt động tới năm 1807, khi các cơ sở giáo dục cao học khác tiếp quản cho tới sự thành lập của Đại học Zadar mới năm 2002. Đại học Zagreb, được thành lập năm 1669, là Đại học có thời gian hoạt động liên tục lâu nhất tại Đông Nam Âu. Cũng có các trường bách khoa và giáo dục cao học khác.\nVăn hoá.\nVăn hoá Croatia là kết quả của một lịch sử dài mười bốn thế kỷ đã chứng kiến sự phát triển của nhiều thành phố và các công trình. Nước này có bảy Địa điểm di sản thế giới và tám vườn quốc gia. Croatia cũng là nơi sinh của một số nhân vật lịch sử. Trong số đó có những người nổi tiếng như ba người đoạt giải Nobel và nhiều nhà phát minh.\nMột số chiếc bút máy đầu tiên của thế giới có từ Croatia. Croatia cũng có một địa điểm trong lịch sử có đồ quần áo như là nguồn gốc của chiếc cà vạt (\"kravata\"). Nước này có một nền nghệ thuật và văn học lâu dài và một truyền thống âm nhạc. Một khía cạnh đáng chú ý khác là sự đa dạng của ẩm thực Croatia và loại quà tặng truyền thống nổi tiếng của Croatia, Licitar.\nThể thao.\nCroatia có danh tiếng là nơi sản sinh ra nhiều vận động viên nổi tiếng trong nhiều môn thể thao. Các môn thể thao phổ biến nhất tại Croatia là bóng đá, bóng ném, bóng rổ, water polo, tennis, và trượt tuyết.\nĐội tuyển bóng đá quốc gia Croatia đã giành huy chương đồng tại 1998 FIFA World Cup và Davor Šuker đoạt giải Chiếc giày Vàng với tư cách cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất. Đội tuyển bóng đá quốc gia cũng đã vào tới trận tứ kết 1996 European Championships và 2008 European Championships. Mới đây, Croatia cũng đã tạo ra bất ngờ khi lọt vào trận chung kết World Cup 2018 và thua đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp. Đội tuyển nước này hiện xếp hạng 9 trong Bảng xếp hạng của FIFA (thời điểm tháng 9 năm 2009). Các cầu thủ nổi tiếng nhất là Luka Modrić,Ivan Rakitić,Ivan Perišić,Mario Mandžukić, Ivica Olić và Eduardo.\nĐội tuyển bóng ném quốc gia Croatia từng hai lần là nhà vô địch Olympics (năm 1996 và 2004). Đội tuyển cũng giành huy chương vàng tại 2003 World Men's Handball Championship, và huy chương bạc tại các Giải vô địch thế giới năm 1995, 2003 và 2009. Croatia giành huy chương đồng tại 1994 European Championships và huy chương bạc tại 2008. RK Zagreb là Vô địch châu Âu năm 1992 và 1993 và 4 lần về thứ hai (1995, 1997, 1998 và 1999). Các vận động viên Croatia Ivano Balić, Igor Vori và Domagoj Duvnjak hiện là những cầu thủ bóng ném hàng đầu thế giới.\nĐội tuyển bóng rổ quốc gia Croatia đã giành huy chương bạc tại giải đấu bóng rổ Olympic năm 1992, huy chương đồng tại 1994 FIBA World Championship và huy chương đồng tại EuroBasket 1993 và EuroBasket 1995. Các câu lạc bộ bóng rổ Croatia từng năm lần là nhà vô địch Euroleague: KK Split ba lần (năm 1989, 1990 và 1991) và KK Cibona năm 1985 và 1986. Các vận động viên bóng rổ Croatia như Dražen Petrović, Krešimir Ćosić và Toni Kukoč là những vận động viên nước ngoài đầu tiên thành công tại giải NBA ở Hoa Kỳ.\nĐội tuyển water polo quốc gia Croatia đã giành huy chương vàng tại 2007 FINA World Championships và huy chương đồng năm 2009. Đội tuyển cũng giành huy chương bạc tại 1996 Olympic water polo tournament và huy chương bạc năm 1999 và 2003 tại European Championships. Các câu lạc bộ water polo Croatia đã 13 lần giành chức vô địch LEN Euroleague. HAVK Mladost từ Zagreb đã bảy lần giành chức Vô địch châu Âu (năm 1968, 1969, 1970, 1972, 1990, 1991 và 1996) và được trao danh hiệu \"Câu lạc bộ Tốt nhất thế kỷ XX\" bởi LEN. VK Jug từ Dubrovnik và VK Jadran từ Split đều từng ba lần giành chức Vô địch châu Âu.\nĐội tuyển Davis Cup Croatia (Ivan Ljubičić, Mario Ančić và Ivo Karlović cùng huấn luyện viên Nikola Pilić) đã giành chiến thắng giải 2005 Davis Cup vào tới bán kết năm 2009 (Marin Čilić và Ivo Karlović cùng huấn luyện viên Goran Prpić). Tay vợt tennis Goran Ivanišević là một trong những vận động viên nổi tiếng nhất nước. Ivanišević đã giành giải vô địch đơn Wimbledon năm 2001 và từng đứng thứ 2 trong Bảng xếp hạng ATP tháng 7 năm 1994. Ivan Ljubičić từng đứng thứ 3 trong Bảng xếp hạng ATP tháng 5 năm 2006. Iva Majoli đã giành chức vô địch đơn nữ Roland Garros năm 1997. Hiện tại tay vợt hàng đầu Croatia là Marin Čilić xếp hạng 15 tại thời điểm ngày 15 tháng 9 năm 2009.\nJanica Kostelić là vận động viên trượt tuyết tốc độ nữ thành công nhất trong lịch sử Olympic Mùa đông. Cô là người duy nhất giành bốn huy chương vàng môn trượt tuyết tốc độ tại Olympics Mùa đông (năm 2002 và 2006), và là người duy nhất giành ba huy chương vàng trượt tuyết trong một kỳ Olympics (2002). Cô cũng giành hai huy chương bạc năm 2006. Janica là vô địch tổng hợp World Cup năm 2001, 2003, và 2006. Ngày 5 tháng 2 năm 2006 Janica trở thành vận động viên trượt tuyết nữ thứ hai giành chiến thắng toàn bộ năm môn trong một mùa giải. Cô cũng giữ kỷ lục có số điểm cao nhất tại một mùa giải World Cup. Năm 2006 cô giành Giải Laureus World Sports cho người phụ nữ thể thao của năm. Anh trai cô Ivica Kostelić là vô địch trượt tuyết vượt chướng ngại vật năm 2003 và huy chương bạc nam Olympic 2006.\nBlanka Vlašić là vận động viên điền kinh thành công nhất Croatia môn nhảy cao. Cô là nhà vô địch thế giới năm 2007 và 2009. Blanka cũng là nhà vô địch thế giới trong nhà năm 2008 và giành huy chương bạc Olympic năm 2008. Thành tích cá nhân tốt nhất của cô là 2.08 m (chỉ kém 1 cm so với kỷ lục thế giới) được lập tại Zagreb ngày 31 tháng 8 năm 2009.\nĐội tuyển bóng chuyền nữ quốc gia Croatia đã ba lần giành huy chương bạc tại Giải vô địch bóng chuyền châu Âu năm 1995, 1997 và 1999.\nCác vận động viên nổi tiếng khác của Croatia là Duje Draganja, Gordan Kožulj, Sanja Jovanović và Đurđica Bjedov môn bơi lội, Zoran Primorac, Dragutin Šurbek, Antun Stipančić và Tamara Boroš môn bóng bàn, Filip Ude môn thể dục, Siniša và Nikša Skelin môn rowing, Martina Zubčić và Sandra Šarić môn taekwondo, Snježana Pejčić môn bắn súng, Matija Ljubek môn canoeing, Željko Mavrović và Mate Parlov môn đấm bốc, Branko Cikatić và Mirko Filipović \"Cro Cop\" môn kickboxing và UFC Goran Reljic.\nTôn giáo.\nCác tôn giáo chính của Croatia là Công giáo La Mã chiếm 86,28% dân số, Chính Thống giáo 4,44%, 0,34% Tin Lành, Kitô giáo khác 0,30%, và 1,47% Hồi giáo.\nCác trường công lập cho phép sự mở các lớp giáo lý tôn giáo trong trường, đây là sự hợp tác giữa các cộng đồng tôn giáo với chính phủ, nhưng việc tham dự tham dự là không bắt buộc. Các lớp học được tổ chức rộng rãi trong các trường tiểu học và trung học công lập. Trong năm 2009, 92% học sinh tiểu học và 87% học sinh trung học tham dự các lớp học giáo lý tôn giáo.\nVị trí pháp lý của cộng đồng các tôn giáo ở Croatia được xác định bởi luật pháp đặc biệt, đặc biệt liên quan đến chính phủ do sự tài trợ, ưu đãi về thuế, và giáo dục tôn giáo trong các trường học công lập. Các vấn đề khác sẽ do mỗi cộng đồng tôn giáo đàm phán riêng với chính phủ. Việc đăng ký của các cộng đồng tôn giáo ở nước này là không bắt buộc, nhưng tôn giáo nào đã đăng ký sẽ được chính phủ công nhận pháp nhân và được hưởng các ưu đãi về thuế và các lợi ích khác. Pháp luật Croatia quy định để đủ điều kiện đăng ký, một nhóm tôn giáo phải có ít nhất 500 tín hữu và được đăng ký như một hiệp hội dân sự trong 5 năm. Các nhóm tôn giáo có trụ sở ở nước ngoài phải gửi văn bản cho phép đăng ký từ nước sở tại của mình.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Caloptilia rhois ?", "role": "user" }, { "content": "Caloptilia rhois là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Nó được tìm thấy ở Trung Quốc (Zhejiang, Hubei, Hunan, Jiangxi, Shannxi, Tứ Xuyên, Anhui, Fujian, Gansu, Guizhou, Henan), Hong Kong, Nhật Bản (Honshū, Kyūshū, Hokkaidō) và Hàn Quốc.\nSải cánh dài 11.8-13.2 mm.\nẤu trùng ăn \"Rhus javanica\" và \"Toxicodendron succedaneum\". Chúng ăn lá nơi chúng làm tổ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Quan họ?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Dân ca Quan họ là một trong những làn điệu dân ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Nó được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh ngày nay với dòng sông Cầu chảy qua được gọi là \"dòng sông quan họ\". Kinh Bắc là một tỉnh cũ bao gồm cả hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang (và một phần của Lạng Sơn, Hưng Yên, Hà Nội ngày nay). Quan họ cũng được hình thành ở vùng văn hóa Bắc Ninh này. \nNgày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ tư của Ủy ban liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới ngày 2 tháng 10 năm 2009), Dân ca quan họ Bắc Ninh đã được ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù.\nNguồn gốc.\nÝ nghĩa của từ \"Quan họ\" thường được tách thành hai từ rồi lý giải nghĩa đen về mặt từ nguyên của \"quan\" và của \"họ\". Điều này dẫn đến những kiến giải về \"Quan họ\" xuất phát từ \"âm nhạc cung đình\", hay gắn với sự tích một ông quan khi đi qua vùng Kinh Bắc đã ngây ngất bởi tiếng hát của liền anh liền chị ở đó và đã dừng bước để thưởng thức (\"họ\"). Tuy nhiên cách lý giải này đã bỏ qua những thành tố của không gian sinh hoạt văn hóa quan họ như hình thức sinh hoạt (nghi thức các phường kết họ khiến anh hai, chị hai suốt đời chỉ là bạn, không thể kết thành duyên vợ chồng), diễn xướng, cách thức tổ chức và giao lưu, lối sử dụng từ ngữ đối nhau về nghĩa và thanh điệu trong sinh hoạt văn hóa đối đáp dân gian.\nMột số quan điểm lại cho rằng Quan họ bắt nguồn từ những nghi lễ tôn giáo dân mang yếu tố phồn thực chứ không phải Quan họ có nguồn gốc từ âm nhạc cung đình, hoặc có quan điểm nhận định diễn tiến của hình thức sinh hoạt văn hóa \"chơi Quan họ\" bắt nguồn từ nghi lễ tôn giáo dân gian qua cung đình rồi trở lại với dân gian.\nNhận định khác dựa trên phân tích ngữ nghĩa từ ngữ trong các làn điệu và không gian diễn xướng lại cho rằng Quan họ là \"quan hệ\" của một nhóm những người yêu quan họ ở vùng Kinh Bắc.\nTuy vậy đa số các học giả chưa chấp nhận quan điểm nào.\nQuan họ ngày nay không chỉ là lối hát giao duyên (hát đối) giữa \"liền anh\" (bên nam, người nam giới hát quan họ) và \"liền chị\" (bên nữ, người phụ nữ hát quan họ) mà còn là hình thức trao đổi tình cảm giữa liền anh, liền chị với khán giả. Một trong những hình thức biểu diễn hát quan họ mới là kiểu hát đối đáp giữa liền anh và liền chị. Kịch bản có thể diễn ra theo nội dung các câu hát đã được chuẩn bị từ trước hoặc tùy theo khả năng ứng biến của hai bên hát.\nQuan họ truyền thống.\nQuan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 44 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do người dân Kinh Bắc thích thú \"chơi Quan họ\", không phải là \"hát Quan họ\" Quan họ truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ. \n\"Chơi quan họ\" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời là người thưởng thức (thưởng thức \"cái tình\" của bạn hát). Nhiều bài quan họ truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị \"chơi quan họ\" ưa thích đến tận ngày nay như: \"Vốn liếng em có 30 đồng\", \"Mời nước mời trầu\", \"Ngồi tựa song đào\", \"Cây trúc xinh\", \"Người ở đừng về\", \"Xe chỉ luồn kim\"...\nQuan họ mới.\nQuan họ mới còn được gọi là \"hát Quan họ lời mới\", là hình thức biểu diễn (hát) quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân, lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng... Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào bất kỳ ngày nào trong năm. Các băng đĩa VCD, DVD về quan họ ngày nay đều là hình thức quan họ biểu diễn trên sân khấu, tức những bài quan họ lời cổ được cải biên lời. Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở các quốc gia trên thế giới.\nQuan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống, bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa... Quan họ mới cải biên các bài bản truyền thống theo hai cách: không có ý thức và có ý thức Dù ít hay nhiều nhưng hình thức hát quan họ có nhạc đệm được coi là cách cải biên không có ý thức. Đa số các bài quan họ mới thuộc dạng cải biên này. Cải biên có ý thức là những bài bản đã cải biên cả nhạc và lời của bài bản quan họ truyền thống. Loại cải biên này không nhiều, ví dụ bài \"Người ở đừng về\" là cải biên từ làn điệu \"Chuông vàng gác cửa tam quan\" (Xuân Tứ cải biên).\nHát quan họ với lời mới được nhiều người yêu thích tới mức tưởng nhầm là quan họ truyền thống như bài \"Sông Cầu nước chảy lơ thơ\" do Mai Khanh soạn lời mới từ làn điệu truyền thống \"Nhất quế nhị lan\". Quan họ mới được ưa thích hơn quan họ truyền thống không phải do không gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của quan họ không còn nữa mà một phần do hoạt động \"hát quan họ\" ngày nay thường được gắn với chính quyền nhiệm vụ tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá quan họ trên diện rộng.\nCác làng Quan họ.\nNăm 2016, có 44 làng quan họ được đưa vào danh sách bảo tồn và phát triển di sản văn hóa. Tỉnh Bắc Giang có 05 làng quan họ, tỉnh Bắc Ninh có 44 làng quan họ. Điều đặc biệt là phần lớn các làng quan họ thờ thánh Tam Giang, vị thánh gắn với dòng sông Cầu. Các làng quan họ Kinh Bắc tồn tại ở các huyện, thành phố: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du, thành phố Bắc Ninh (\"còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh\") và các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa (\"còn gọi là quan họ bờ bắc sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Giang\").\nDanh sách 44 làng Quan họ tồn tại và phân bố như sau:\nDo chậm trễ nên trong phạm vi UNESCO công nhận ban đầu chỉ gồm có 49 làng Quan họ sau: Hữu Nghi, Giá Sơn, Mai Vũ, Nội Ninh, Sen Hồ, Hữu Chấp, Viêm Xá, Đẩu Hàn, Xuân Ái, Xuân Đồng, Xuân Viên, Thụ Ninh, Đặng Xá, Khúc Toại, Trà Xuyên, Ông Mơi, Đông Yên, Châm Khê, Đào Xá, Dương Ổ, Cổ Mễ, Phúc Sơn, Y Na, Thị Cầu, Thanh Sơn, Niềm Xá, Yên Mẫn, Yên Thị Trung, Vệ An, Ỗ Xá, Xuân Ổ, Hòa Đình, Khả Lễ, Bồ Sơn, Duệ Đông, Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Đình Cả, Lộ Bao, Hoài Trung, Vân Khám, Bái Uyên, Ném Đoài, Đình Cả, Ném Tiền, Tiêu, Tam Sơn, Tam Tảo.\nLàn điệu.\nQuan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi âm hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.\nMột số làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn, Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, Gió mát trăng thanh, Tứ quý.\nTrang phục.\nTrang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ.\nLiền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài. Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen, chất liệu là lương, the, hoặc đối với người khá giả hơn thì áo ngoài may bằng đoạn màu đen, cũng có người áo dài phủ ngoài may hai lần với một lần ngoài bằng lương hoặc the, đoạn, lần trong bằng lụa mỏng màu xanh cốm, xanh lá mạ non, màu vàng chanh...gọi là áo kép. Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới mắt cá chân, chất liệu may quần cũng bằng diềm bâu, phin, trúc bâu, hoặc lụa truội màu mỡ gà. Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện. Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… các liền anh thường có thêm nón chóp với các dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. Ngoài ra cũng thường thấy các liền anh dùng ô đen. Các phụ kiện khác là khăn tay, lược, những \"xa xỉ phẩm\" theo quan niệm thời xưa. Khăn tay bằng lụa hoặc bằng vải trắng rộng, gấp nếp và gài trong vành khăn, thắt lưng hoặc trong túi trong.\nTrang phục liền chị thường được gọi là \"áo mớ ba mớ bảy\", nghĩa là liền chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào nhau (mớ bảy). Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo mớ ba. Về cơ bản trang phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ thường làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là yếm cổ xẻ (dùng cho trung niên) và yếm cổ viền (dùng cho thanh nữ). Bên ngoài yếm là một chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân, cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn. Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước. Chất liệu để may áo đẹp nhất thời trước là the, lụa. Áo dài ngoài thường mang màu nền nã như màu nâu già, nâu non, màu đen, màu cánh gián trong khi áo dài trong thường nhuộm màu khác nhau: màu cánh sen, màu hoa hiên, màu thiên thanh, màu hồ thủy, màu vàng chanh, màu vàng cốm v.v. Áo cánh mặc trong có thể thay bằng vải phin trắng, lụa mỡ gà.\nYếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên), xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)... Giải yếm to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước cùng với bao và thắt lưng. Bao của các cô gái quan họ xưa thường sử dụng chất liệu sồi se, màu đen, có tua bện ở hai đầu bao, khổ rộng, có thể đựng túi tiền mỏng ở trong bao rồi thắt gọn ngang eo, luồn qua lưng áo dài, bó chặt lấy ba thân áo trước, thắt múi to để che phía trước bụng. Thắt lưng thường là loại bao nhỏ bằng chừng 1/3 bao, dùng để thắt chặt cạp váy vào eo. Cũng tương tự yếm, thắt lưng làm bằng lụa nhuộm các màu tươi sáng như màu hoa lựu, màu hoa đào, màu hoa hiên tươi, màu hồ thủy. Thắt lưng cũng buộc múi ra phía trước để cùng với múi bao, múi giải yếm tạo nên những múi hoa màu sắc phía trước người con gái.\nLiền chị mặc váy váy sồi, váy lụa, đôi khi có người mặc váy kép với váy trong bằng lụa, vải màu, lương, the, đoạn; váy ngoài bằng the, lụa. Váy màu đen. Người biết mặc váy khéo là không để váy hớt trước, không để váy quây tròn lấy người như mặc quần mà phải thu xếp sao cho phía trước rủ hình lưỡi chai xuống gần tới mu bàn chân, phía sau hơi hớt lên chớm tầm đôi con khoai phía gót chân.\nLiền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công; có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai khiến khi đi lại, không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải biết nện, thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che giấu đầu các ngón chân. Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.\nVăn hoá quan họ.\nVăn hoá quan họ còn là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình, nồng thắm mỗi khi có khách đến chơi nhà \"\"đôi tay nâng chén rượu đào, đổ đi thì tiếc, uống vào thì say\". Quan họ uống chén rượu mừng xuân, mừng hội, vui bầu, vui bạn… rồi ca xướng cho tan canh mãn võ, cho tàn đêm rạng ngày, rồi các làn điệu chia tay giã bạn đầy quyến luyến trong câu hát \"Người ơi người ở đừng về\"tàn canh, giã hội rồi mà quan họ vẫn còn ngậm ngùi tiếc nhớ \"Người về tôi vẫn ngậm ngùi, để thương, để nhớ cho tôi thế này... Người về tôi chẳng dám nài, áo trong người mặc, áo ngoài người để làm tin\"… Và để rồi kết thúc bằng những lời hứa hẹn tha thiết \"Đến hẹn lại lên\"… trong mùa hội tới.\"\"\nQuan họ là \"ứng xử\" của người dân Kinh Bắc, \"mỗi khi khách đến chơi nhà\", không chỉ \"rót nước pha trà\" mời khách, mà cùng với đó là những câu hát thắm đượm nghĩa tình: \"Mỗi khi khách đến chơi nhà/ đốt than quạt nước pha trà mời người xơi/ trà này quý lắm người ơi/ Mỗi người một chén cho tôi vui lòng\"...\nBảo tồn Quan họ.\nQuan họ là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu. Quan họ được lưu truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu. Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành một loại hình dân ca có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi nhiều, thậm chí khác hẳn sẽ với ban đầu. Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết.\nTừ những năm 70 của Thế kỷ XX, Sở Văn hóa Hà Bắc đã tiến hành sưu tầm Quan họ. Hàng nghìn bài Quan họ, bao gồm cả các dị bản đã được ghi âm tại các làng quan họ, với giọng hát của hàng trăm nghệ nhân. Sau khi sàng lọc và lựa chọn, nhạc sĩ, nhà nghiên cứu Phạm Hồng Thao đã ký âm thành bản nhạc, có bổ sung thêm một số ký tự riêng đặc trưng cho giai điệu Quan họ. Khoảng 300 bài Quan họ hay nhất đã được Nhà xuất bản Âm nhạc in thành sách. Tuy nhiên, hàng nghìn bài Quan họ đã được ghi âm, do các cụ nghệ nhân (đã mất) hát, phải được bảo quản cực kỳ cẩn thận. Sở Văn hóa thể thao du lịch Bắc Ninh và Bắc Giang chịu trách nhiệm lưu giữ các cuốn băng này cần phải số hóa toàn bộ để có thể lưu giữ một cách dài lâu cho thế hệ mai sau, đó cũng là tài liệu văn hóa cần bảo tồn giúp các làn điệu quan họ sống mãi.\nNhững năm qua, Bắc Ninh là một trong những địa phương có sự hội nhập và tốc độ phát triển kinh tế, xã hội xếp hàng đầu trong cả nước. Là tỉnh có diện tích nhỏ, dân số khoảng 1,15 triệu người, trước đây chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, đến nay, Bắc Ninh được coi là một “thỏi nam châm” của vùng Bắc Bộ, đang đứng thứ hai cả nước về thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó đã làm cho Bắc Ninh trở thành địa phương phát triển mạnh mẽ, năm 2021 chỉ số GRDP tăng 6,9% đứng thứ 13, tốc độ tăng trưởng đứng thứ 8 cả nước về quy mô, thu nhập bình quân đầu người/ tháng đứng thứ 5 cả nước. Quá trình hội nhập và phát triển diễn ra mạnh mẽ ở Bắc Ninh, có những tác động đến nhiều mặt của văn hóa, trong đó có các DSVH.\nTrước hết, có thể nhận thấy rằng, quá trình phát triển, nhất là về mặt kinh tế, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo tồn, phát huy giá trị DSVH. Trước và sau khi dân ca quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận, chính quyền địa phương đã đầu tư lượng kinh phí lớn để nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa nhằm bảo tồn, lưu giữ các làn điệu quan họ; tiến hành triển khai nghiên cứu, sưu tầm, tư liệu hóa các làn điệu quan họ cổ tại các làng, xã, các nghệ nhân quan họ, cũng như di vật, tư liệu có liên quan. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, việc sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật đã giúp cho việc sưu tầm, tư liệu hóa và lưu giữ rất thuận lợi. Tư liệu sau khi sưu tầm được lưu giữ tại các trung tâm có trang thiết bị bảo quản hiện đại, đảm bảo có thể gìn giữ trong thời gian dài.\nĐối với các DSVH phi vật thể, việc truyền dạy giữa các thế hệ là điều quan trọng để có thể bảo tồn, duy trì được di sản. Thời gian qua, các lớp truyền dạy dân ca quan họ đã được đầu tư, tổ chức ở nhiều địa phương dành cho các lứa tuổi khác nhau, nhất là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên. Đến nay đã có 369 làng quan họ thực hành, 381 câu lạc bộ quan họ với hơn 10.000 người ở các độ tuổi tham gia, hàng nghìn người có khả năng truyền dạy. Nhiều nơi đã xây dựng mô hình câu lạc bộ quan họ măng non. Đây là cách làm sáng tạo, là một mô hình hiệu quả trong thực hiện chương trình hành động bảo tồn, phát huy giá trị của DSVH dân ca quan họ trong xã hội đương đại. Việc truyền dạy quan họ cũng đã được nghiên cứu, biên soạn thành các tài liệu và đưa vào giảng dạy tại các trường phổ thông.\nNăm 2018, đề án Bảo tồn và phát huy giá trị DSVH phi vật thể dân ca quan họ Bắc Ninh được tiếp tục triển khai ở giai đoạn 2 đến năm 2022. Theo đó, tỉnh đã đầu tư số lượng kinh phí lớn để thực hiện các chương trình truyền dạy dân ca quan họ, đầu tư xây dựng và tu bổ các thiết chế văn hóa liên quan đến dân ca quan họ. Ngoài những địa điểm sẵn có của làng như đình, đền, chùa... còn có địa điểm dành riêng cho “bọn quan họ” đó là “nhà chứa quan họ”. Thời gian qua, tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành trùng tu hoặc cho xây dựng mới các “nhà chứa quan họ” theo kiến trúc truyền thống ở nhiều làng quan họ gốc như Viêm Xá, Đương Xá, Thị Cầu, Lũng Giang…\nNghệ nhân quan họ cũng được quan tâm đãi ngộ nhằm khích lệ động viên về vật chất và tinh thần. Họ được phong tặng danh hiệu theo quy chế, đồng thời được hưởng trợ cấp hằng tháng bằng mức lương tối thiểu; NNƯT, NNND hưởng mức hỗ trợ cao hơn. Nhằm tạo sự lan tỏa giá trị của dân ca quan họ, tỉnh Bắc Ninh không những hỗ trợ kinh phí cho các câu lạc bộ ở địa phương, mà còn cho cả các câu lạc bộ dân ca quan họ tiêu biểu đang hoạt động ở các tỉnh, thành phố khác trong cả nước.\nTừ khi nước ta thực hiện chính sách hội nhập, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới, ngành Nghệ thuật biểu diễn nói chung, dân ca quan họ nói riêng có cơ hội được trình diễn, giới thiệu ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ những nét độc đáo, đặc trưng của môn nghệ thuật này. Điều đó đã khẳng định được thương hiệu của dân ca quan họ, thể hiện được bản sắc văn hóa, làm cho các nền văn hóa có sự đối sánh và trân trọng đối với các giá trị của văn hóa Việt Nam.\nNgay sau khi được UNESCO công nhận Dân ca Quan họ Bắc Ninh là di sản văn hóa thế giới phi vật thể, tỉnh Bắc Giang đã xây dựng Chương trình hành động để bảo tồn Dân ca Quan họ. Trên cơ sở những cam kết với UNESCO, tỉnh Bắc Giang đã triển khai nhiều hoạt động tiêu biểu như: Triển khai việc tiếp tục sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu quảng bá những cái hay, cái đẹp của Dân ca Quan họ Bắc sông Cầu; tổ chức các cuộc hội thảo về bảo tồn và phát huy di sản Dân ca Quan họ tỉnh Bắc Giang; xuất bản các ấn phẩm, như: Các bài Hát đối Quan họ, 120 bài Hát đối Quan họ; Làng Quan họ Bắc sông Cầu (giới thiệu 18 làng quan họ Bắc sông Cầu trên quê hương Việt Yên); Các bài hát Quan họ phổ biến ở Bắc Giang.\nĐặc biệt, Bắc Giang còn chú trọng tập trung cho việc truyền dạy Dân ca Quan họ tại các làng xã. Thường xuyên tổ chức liên hoan tiếng hát Quan họ. Từ năm 2010 đến 2016, cùng với các địa phương, các cơ sở thường xuyên tổ chức các hoạt động văn nghệ quần chúng, trong đó thi hát dân ca quan họ là một nội dung chủ yếu. Trung tâm Văn hóa tỉnh Bắc Giang đã tổ chức hơn 60 lớp truyền dạy Dân ca Quan họ cho hơn 3.000 học viên là các hạt nhân văn nghệ tiêu biểu ở các huyện Việt Yên, Lục Ngạn, thành phố Bắc Giang, Lục Nam, Lục Ngạn,… Đến năm 2016, huyện Việt Yên đã tổ chức 14 cuộc Liên hoan tiếng hát Quan họ. Tỉnh Bắc Giang đã tổ chức Liên hoan tiếng hát Quan họ toàn tỉnh, lần thứ V. Ngày 17/3/2014, Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam đã ra quyết định thành lập Trung tâm Văn hóa Quan họ truyền thống khu vực Bắc Giang, tồn tại song song với Trung tâm nghiên cứu bảo tồn và phát huy dân ca Quan họ, hoạt động trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh – Nam sông Cầu.\nNgày 20 tháng 1 năm 2013, Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh tổ chức ra mắt. Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh nay là nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh đã hoàn thành tốt nhiệm vụ sưu tầm, nghiêm cứu, gìn giữ và phát triển dân ca quan họ; nhiều hình thức giới thiệu dân ca quan họ mà đoàn thể nghiệm được quần chúng nhân dân đánh giá cao và học tập làm theo, góp phần thúc đẩy phong trào ca hát quan họ trong tỉnh cũng như lan tỏa rộng khắp cả nước. Đến nay từ 44 làng quan họ gốc, tỉnh Bắc Ninh đã nhân lên thành 329 làng Quan họ mới, trong đó có 41 nghệ nhân dân ca Quan họ. Đối với thôn Viêm Xá, xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, nơi được coi là Thủy tổ dân ca Quan họ Bắc Ninh đã có nhiều giải pháp khôi phục, bảo tồn dân ca Quan họ, nhất là các bài Quan họ cổ.\nVề ẩm thực Quan họ, hai tỉnh Bắc Giang - Bắc Ninh đã khôi phục lại \" Mâm đan, bát đàn\" đó là những vật dụng của người quan họ khi mời thực khách dự ẩm thực quan họ. Xây dựng phòng trưng bày văn hóa quan họ, giới thiệu di sản với bạn bè trong nước, quốc tế. Các phương tiện thông tin đại chúng tăng thời lượng tuyên truyền về dân ca quan họ, nhất là các lề lối Quan họ, văn hóa Quan họ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Myristica brachypoda từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Myristica brachypoda là một loài thực vật thuộc họ Myristicaceae. Đây là loài đặc hữu của Papua New Guinea.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Danh sách tổng lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Danh sách các Tổng lãnh sự quán nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí Minh: 25 Tổng lãnh sự quán, 1 Văn phòng Kinh tế - Văn hóa, 2 Văn phòng kinh tế và thương mại, 1 Văn phòng Xúc tiến Thương mại Đại sứ quán, 1 Văn phòng Xúc tiến Xuất khẩu và Đầu tư nước ngoài và 1 Văn phòng Thương vụ.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Quận Lycoming, Pennsylvania?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Quận Lycoming là một quận trong tiểu bang Pennsylvania, Hoa Kỳ. Quận lỵ đóng ở Williamsport. Theo điều tra dân số năm 2000 của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có dân số 120.044 người.quận Bradford đã được tách ra từ một phần của quận Lycoming.\nĐịa lý.\nTheo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích 3221 kilômét vuông, trong đó có 23 km2 là diện tích mặt nước.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Solenopsidini?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Solenopsidini là một tông kiến bao gồm 20 chi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2009 is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Giải vô địch U-21 châu Âu bắt đầu từ ngày 15 tháng 6 năm 2009, và đó là giải vô địch lần thứ 17. Đây là giải đấu đầu tiên sau khi giải trở lại với chu kì 2 năm một lần, sau giải đấu năm 2006-2007, giải đấu cho phép có 2 cầu thủ trên 21 tuổi.Thuỵ Điển tổ chức giải đấu vào tháng 6 năm 2009; do vậy họ được vào thẳng vòng bảng. 51 trên tổng số 52 đội ở châu Âu tham dự vòng loại, bao gồm cả Montenegro và Serbia, đây là lần đầu tiên họ tham dự với tư cách là 2 quốc gia riêng rẽ, đấu với các đội khác để chọn ra 7 đội khác đến Thuỵ Điển ở vòng chung kết. Andorra không tham dự. Cầu thủ sinh sau hoặc đúng ngày 1 tháng 1 năm 1986 cũng được phép tham dự giải.\nVòng loại.\nCác bảng đấu.\n51 quốc gia được chia thành 10 bảng đấu, thi đấu từ ngày 31 tháng 5 năm 2007 cho tới 10 tháng 9 năm 2008.Lễ chia bảng được tổ chức vào ngày 13 tháng 2 năm 2007 ở Stockholm, Thuỵ Điển.\nPlay-offs.\nĐội đứng đầu 10 bảng đấu và đội đứng thứ nhì có số điểm cao nhất mỗi bảng được chọn để lấy ra 7 suất. Các trận đấu được diễn ra vào tháng 10 năm 2008.\nĐịa điểm tổ chức.\nNhững sân vận động sau được chọn cho giải đấu:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Grafschaft Bentheim from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "County of Bentheim () là một huyện (\"Landkreis\") ở Niedersachsen, Đức. Các đơn vị giáp ranh (từ phía tây theo chiều kim đồng hồ) là: các tỉnh Hà Lan Overijssel và Drenthe, huyện Emsland, và các huyện Steinfurt và Borken ở Nordrhein-Westfalen.\nLịch sử.\nHuyện này có lãnh thổ gần trùng với hạt Bentheim, một đơn vị thời đế quốc La Mã thần thánh và bị giải thể năm 1803.\nĐịa lý.\nSông Vechte chảy qua huyện theo hướng nam-bắc và chảy vào Hà Lan. Tất cả các đô thị chính ở huyện này đều nằm dọc theo con sông này.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Nomia albofasciata from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Nomia albofasciata là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Smith mô tả khoa học năm 1875.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Lasioglossum frankenia is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Lasioglossum frankenia là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Walker mô tả khoa học năm 1995.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Lasioglossum littorale ?", "role": "user" }, { "content": "Lasioglossum littorale là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Blüthgen mô tả khoa học năm 1924.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Coelioxys magretti từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Coelioxys magretti là một loài Hymenoptera trong họ Megachilidae. Loài này được Friese mô tả khoa học năm 1915.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin về Agrypnus binodulus", "role": "user" }, { "content": "Agrypnus binodulus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Motschulsky miêu tả khoa học năm 1861.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Antheny từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Antheny là một xã ở tỉnh Ardennes, thuộc vùng Grand Est ở phía bắc nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Dasystoma salicella á", "role": "user" }, { "content": "Dasystoma salicella là một loài bướm đêm thuộc họ Chimabachidae. Chúng là loài đặc hữu của châu Âu, but is an introduced species in Bắc Mỹ.\nSải cánh dài đối với con cái (which are not able to fly) và đối với con đực. The moth gặp ở one generation từ tháng 3 đến tháng 4 tùy theo địa điểm.\nẤu trùng ăn sồi, Birch, Willow, Rhododendron.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Palaiargia melidora, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Palaiargia melidora là một loài chuồn chuồn kim trong họ Coenagrionidae.\n\"Palaiargia melidora\" được Lieftinck miêu tả khoa học năm 1953.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Hérault á", "role": "user" }, { "content": "Hérault là một tỉnh của Pháp, thuộc vùng hành chính Occitanie, tỉnh lỵ Montpellier, bao gồm 3 quận với các quận lỵ còn lại là: Béziers, Lodève.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Campo de Villavidel từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Campo de Villavidel là một đô thị trong tỉnh León, Castile và León, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số 2004 (INE), đô thị này có dân số là 289 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Mompha subbistrigella không ?", "role": "user" }, { "content": "The Garden Cosmet (\"Mompha subbistrigella\") là một loài bướm đêm thuộc họ Momphidae. Nó được tìm thấy ở hầu hết châu Âu.\nSải cánh dài 7-11.5 mm. Con trưởng thành bay từ cuối hè to late spring.\nThe larvae feed withtrong seedpods of \"Epilobium montanum\" and occasionally on other \"Epilobium\" species.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Scrapter oxyaspis ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Scrapter oxyaspis là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Davies mô tả khoa học năm 2005.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Centroplacaceae?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Centroplacaceae là một họ thực vật có hoa bao gồm khoảng 2 chi và 6 loài cây gỗ thường xanh. Họ này mới được công nhận trong hệ thống APG III năm 2009.\nHọ phân bổ tại khu vực Tây Phi (chi \"Centroplacus\"), Ấn Độ, Đông Nam Á và Malesia (chi \"Bhesa\"). Theo AGP III, họ này thuộc về bộ Sơ ri (\"Malpighiales\").", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Leno không ?", "role": "user" }, { "content": "Leno là một đô thị thuộc tỉnh Brescia dans la Lombardia ở Ý. Đô thị này có diện tích 58kilômét vuông, dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2004 là 13.503 người.\nĐô thị này có các làng sau: Casteletto, Milzanello, Porzano.\nĐô thị này giáp với các đô thị sau: Bagnolo Mella, Cigole, Ghedi, Gottolengo, Manerbio, Offlaga, Pavone del Mella.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Ars-en-Ré từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Ars-en-Ré là một xã trong tỉnh Charente-Maritime Charente-Maritime trong vùng Nouvelle-Aquitaine, tây nam nước Pháp. Xã Ars-en-Ré nằm ở khu vực có độ cao trung bình 6 mét trên mực nước biển.\nĐây là một trong 10 xã ở Île de Ré ở tây bắc của đảo.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Đội trẻ và Học viện Manchester United F.C. from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Đội U-21 Manchester United là đội bóng cao nhất của đội trẻ Manchester United mà trước đây gọi là đội dự bị của câu lạc bộ bóng đá này. Đội bóng đang thi đấu tại Họ chơi ở Premier League 2 thuộc cấp độ cao nhất của hệ thống giải Professional Development League. Tại giải đấu này, mỗi đội thi đấu hai lượt đi và về để tính điểm xếp hạng. Mỗi đội cho phép đăng ký ba cầu thủ và một thủ môn trên 23 tuổi trong mỗi trận đấu được quy định mới từ mùa giải 2016-17.\nGiải đấu này ra đời năm 1999 với tên giải Premier Reserve League, khi đó Đội U21 Manchester United vô địch 5 lần (năm 2002, 2005, 2006, 2010 và 2012) và giải đấu này bị hủy bỏ trong năm 2012. Trong mùa giải 2012-13, Liên đoàn bóng đá Anh đã đổi tên giải đấu thành Barclays U21 Premier League và đội U21 Manchester United cũng vô địch ngay mùa giải đầu tiên. Hiện tại, Đội U21 Manchester United đang là nhà vô địch mùa giải 2015-16. Đội bóng cũng tham gia vào giải Manchester Senior Cup và Lancashire Senior Cup.\nHuấn luyện viên hiện tại của đội U23 Manchester United là Ricky Sbragia nhằm thay thế cho Nicky Butt và Warren Joyce đã chuyển sang dẫn dắt Wigan.\nTừ tháng 11 năm 2008 đến tháng 8 năm 2013, đội thi đấu trên sân nhà của mình tại sân Moss Lane ở Altrincham, đó là sân nhà của Altrincham FC.. Kể từ mùa giải U-21 Premier League 2013–14, đội bóng phần lớn chơi trên nhà đó là Sân vận động Salford City tại Barton-upon-Irwell. Từ mùa bóng 2014-15, Đội chủ yếu thi đấu trên sân vận động Leigh Sports Village. Rules quy định tại Premier League rằng ít nhất ba trận đấu trên sân nhà phải thi đấu trên sân vận động chính của câu lạc bộ đó là sân Old Trafford.\nManchester United cũng có một đội U-18 nhưng chơi tại Barclays U18 Premier League thuộc Nhóm 2 và FA Youth Cup. Các cầu thủ dưới 18 tuổi sẽ chơi trên sân nhà ở sân tập AON, tại trung tâm huấn luyện Carrington.\nHọc viện.\nHọc viện Manchester United được thành lập từ năm 1998, một năm trước khi có giải đấu trẻ được tổ chức ở Anh năm 1999. Nhưng nguồn gốc của Học viện ra đời vào năm 1930 với tên gọi là câu lạc bộ Manchester United Junior Athletic (MUJAC). Học viện Manchester United là nơi đào tạo cầu thủ cho câu lạc bộ Manchester United với những tên tuổi lừng danh như Bobby Charlton, Ryan Giggs, Bill Foulkes, Paul Scholes và Gary Neville và làn sóng đào tạo cây nhà lá vườn tốt nhất dưới thời Alex Ferguson. Học viện tập luyện ở sân AON, trong khu tập luyện Carrington, một vùng đất có diện tích 340.000 m2, ở ngoại ô thành phố Manchester của Vương Quốc Anh.\nTheo thống kê, Các đội trẻ Manchester United thành công nhất của bóng đá Anh, với chín cầu thủ lừng danh của bóng đá Anh (Duncan Edwards, Sir Bobby Charlton, George Best, Nobby Stiles, Mark Hughes, Ryan Giggs, Paul Scholes, David Beckham và Johnny Giles). Học viện Manchester United cũng có kỷ lục FA Youth Cup tốt nhất, chiến thắng trên 10 lần trong tổng số 14 lần tổ chức giải đấu này.\nHọc viện Manchester United bao gồm các đội có nhóm tuổi khác nhau, từ U-9 đến U-18. Đội U18 Manchester United hiện đang thi đấu ở giải Professional Development League với tên giải U18 Premier League ở nhóm phía Bắc và FA Youth Cup. Đội U-18 thường thi đấu giải Professional Development League vào lúc 11 giờ sáng vào các buổi sáng thứ bảy tại sân tập AON tại Carrington, trong khi đó giải FA Youth Cup thường được chơi ở một trong hai địa điểm đó là: sân Moss Lane của Altrincham (nơi đây được xem là sân nhà của đội U-18 Manchester United) hoặc sân nhà Old Trafford với sức chứa hơn 76.000 người, để phục vụ cho số lượng lớn người hâm mộ yêu mến Học viện.\nTrong năm 2007, đội U-18 Manchester United vô địch giải đấu Champions Youth Cup 2007, một giải đấu vô địch thế giới dành cho các cầu thủ trẻ được UEFA tổ chức, U18 Manchester United đã xuất sắc đánh bại Juventus 1-0 trong trận chung kết được tổ chức tại Malaysia.\nCác cầu thủ học viện hiện tại.\nCập nhật đến ngày 22 tháng 7 năm 2017.\nCác (cựu) cầu thủ đội trẻ đáng chú ý.\nSau đây là danh sách đầy đủ các cầu thủ đã và đang thi đấu ở cấp độ quốc tế (không nhất thiết thi đấu cho đất nước của họ sau khi sinh).\nCầu thủ trẻ của năm.\nTrước năm 1990, một giải thưởng duy nhất được trao cho các cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa giải đó được ra đời trong năm 1982. Giữa năm 1982 đến năm 1985, giải thưởng này có tên là: \"Cầu thủ trẻ của năm\". Từ năm 1986 đến 1989, giải thưởng sau được đổi tên thành: \"Denzil Haroun, Cầu thủ trẻ của năm\" nhằm tri ân những đóng góp của Denzil Haroun, là một giám đốc của câu lạc bộ cũ và anh rể của cựu chủ tịch câu lạc bộ Louis Edwards.\nTừ năm 1990, giải thưởng cá nhân được trao cho các cầu thủ tốt nhất của Học viện và đội dự bị trong một mùa giải. Giải thưởng \"Cầu thủ trẻ của năm\" được đặt theo tên của Jimmy Murphy, một trợ lý lâu năm của Sir Matt Busby, người đã qua đời vào năm 1989. Còn giải thưởng \"Cầu thủ đội dự bị của năm\" được đặt theo tên của Denzil Haroun.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Tillandsia singularis from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Tillandsia singularis là một loài thuộc chi \"Tillandsia\". Đây là loài bản địa của Costa Rica.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Tôi cần thông tin về Acrocercops tricalyx ở Wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Acrocercops tricalyx là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Nó được tìm thấy ở Queensland.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Engina zepa từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Engina zepa là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Buccinidae.\nPhân bố.\nChúng phân bố ở Ấn Độ Dương dọc theo Madagascar.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Castelrotto is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Kastelruth tiếng Ý: \"Castelrotto\"; Archaic (982): \"Castellorupto\"; tiếng Latin: \"Castellum Ruptum\") là một đô thị ở tỉnh Bolzano-Bozen trong vùng Trentino-Alto Adige/Südtirol của Ý, có vị trí cách khoảng 70 km về phía đông bắc của thành phố Trento và khoảng 20 km về phía đông bắc của thành phố Bolzano. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 6.166 người và diện tích là 117,8 km².\nĐô thị Kastelruth có các \"frazioni\" (các đơn vị cấp dưới, chủ yếu là các làng) Alpe di Siusi, Bulla (Bula), Roncadizza (Roncadic), San Michele Siusi, Snat'Osvaldo, San Valentino, San Vigilio, Tagusa, Tisana, và Oltretorrente (Sureghes).\nKastelruth giáp các đô thị: Barbiano, Campitello di Fassa, Völs am Schlern, Lajen, Urtijëi, Waidbruck, Ritten, Santa Cristina Gherdëina và Tiers.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Trận Landeshut (định hướng)", "role": "user" }, { "content": "Có hai trận đánh có tên tương tự nhau:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Cancellaria obtusa nhé", "role": "user" }, { "content": "Cancellaria obtusa là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Cancellariidae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Franleu from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Franleu là một xã ở tỉnh Somme, vùng Hauts-de-France, Pháp.\nĐịa lý.\nThị trấn này tọa lạc 7 dặm Anh về phía tây của Abbeville trên đường D80.\nXem thêm.\nXã của tỉnh Somme", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Caudacaecilia weberi á", "role": "user" }, { "content": "Caudacaecilia weberi là một loài lưỡng cư thuộc họ Ichthyophiidae.\nĐây là loài đặc hữu của Philippines.\nMôi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, sông ngòi, sông có nước theo mùa, các đồn điền, vườn nông thôn, rừng trước đây suy thoái nghiêm trọng, đất có tưới tiêu, và đất nông nghiệp có lụt theo mùa.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Rödersheim-Gronau, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Rödersheim-Gronau là một đô thị thuộc bang Rhein-Pfalz-Kreis, bang Rheinland-Pfalz, Đức. Đô thị này có diện tích km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2006 là 2876 người.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Villars-sous-Écot không ?", "role": "user" }, { "content": "Villars-sous-Écot là một xã của tỉnh Doubs, thuộc vùng Bourgogne-Franche-Comté, miền đông nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Allow Us to Be Frank is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Allow Us to Be Frank, một album cover để tưởng niệm cố nghệ sĩ Frank Sinatra, là album thứ sáu của ban nhạc nam đến từ Ireland Westlife, đã được phát hành ngày 8 tháng 11 năm 2004. Đạt được vị trí quán quân ở Ireland và #3 ở Anh, chỉ đạt được vị trí #24 trên các Bảng xếp hạng cuối năm 2004 ở Anh, đây là album đạt được thứ hạng thấp nhất của nhóm tính đến thời điểm này.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Type 4 Chi-To từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Chi-To Kiểu 4 (四式中戦車 Yonshiki chūsensha?) là một kiểu xe tăng hạng trung được Lục quân Đế quốc Nhật Bản phát triển trong Thế chiến thứ hai. Đây cũng là kiểu xe tăng mạnh nhất của Nhật Bản được đưa vào sản xuất trong thời kì đó.\nLịch sử phát triển.\nViệc phát triển Chi-To Kiểu 4 đã được bắt đầu từ năm 1942, với ý định thay thế kiểu xe tăng cũ Chi-Ha Kiểu 97. Khác với hầu hết các kiểu xe tăng hạng trung khác của Nhật, thiết kế của Chi-To không dựa trên thiết kế của Chi-Ha. Sau một thời gian trì hoãn, dự án đã được khởi động trở lại vào đầu năm 1944. Trong quá trình thiết kế, người Nhật đã cho đánh giá, nghiên cứu cẩn thận các kiểu xe tăng Đức, tham khảo các thiết kế nước ngoài đồng thời tuyển dụng các cựu chiến binh người Đức để cố vấn trong quá trình thiết kế.\nNguyên mẫu đầu tiên được chuyển giao trong năm 1944. Việc sản xuất đã bị cản trở bởi thiếu hụt nguyên liệu, và nhất là những cuộc ném bom vào lãnh thổ Nhật Bản của không quân Hoa Kỳ. Do đó, kế hoạch mỗi tháng sản xuất 25 chiếc xe tăng của công ty Công nghiệp hạng nặng Mitsubishi tại hai địa điểm khác nhau đã không thể thực hiện. Cho đến năm 1945, chỉ có 6 khung gầm được sản xuất, trong đó có 2 chiếc hoàn chỉnh.\nThiết kế.\nChi-To Kiểu 4 nặng 30 tấn, được hàn kín toàn bộ với độ dày giáp tối đa khoảng 75 mm. Kiểu xe tăng này to hơn Chi-Ha Kiểu 97, với một khung gầm cao, rộng và dài hơn, được hỗ trợ bởi 7 bánh xe. Chi-To Kiểu 4 cho thấy rõ ràng nó chịu ảnh hưởng từ xe tăng T-34 của Liên Xô và xe tăng Panther của Đức Quốc xã với các tháp pháo hẹp và dốc giáp, nhưng trên thực tế nó cùng cấp với mẫu mới nhất của Panzer IV.\nHỏa lực chính, một pháo chống tăng Kiểu 5 75 mm, thiết kế dựa trên pháo phòng không Kiểu 4 75 mm, thực chất là bản sao chép của pháo phòng không Bofors Kiểu 1929 75mm. Tháp pháo có hình lục giác, được bọc thép tốt cùng với một khẩu trung liên Kiểu 97 đồng trục, giống với kiểu thiết kế của tăng Panther. Một khẩu súng máy khác được đặt ở sườn xe, khác với các kiểu xe tăng Nhật là trang bị đằng sau tháp pháo. Ngoài ra, khi cần thiết, còn có thể gắn một súng máy phòng không trên nóc tháp pháo.\nLịch sử hoạt động.\nChỉ có duy nhất 2 chiếc xe tăng Chi-To Kiểu 4 được sản xuất thành công vào lúc chiến tranh kết thúc, cùng với 4 chiếc khác đang trong quá trình hoàn thành. Vào thời điểm đó, người Nhật đã không còn khả năng vận chuyển các loại xe cơ giới hạng nặng qua biển, nên Chi-To Kiểu 4 chỉ được dùng vào công việc phòng thủ Nhật Bản trước cuộc đổ bộ theo dự tính của quân Đồng Minh. Lục quân Nhật hi vọng nhiều sư đoàn thiết giáp được trang bị kiểu xe tăng này sẽ dư sức đẩy lùi quân địch xuống biển, nhưng chiến tranh đã kết thúc trước khi có thêm chiếc xe tăng nào hoàn thành và cả hai chiếc Chi-To Kiểu 4 hoàn chỉnh đã không bao giờ có cơ hội chiến đấu.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Tư trị thông giám nha ?", "role": "user" }, { "content": "Tư trị thông giám (chữ Hán: 資治通鑒; Wade-Giles: Tzuchih T'ungchien) là một cuốn biên niên sử quan trọng của Trung Quốc, với tổng cộng 294 thiên và khoảng 3 triệu chữ. Tác giả chính của cuốn sử này là Tư Mã Quang – nhà sử học thời Tống.\nLịch sử.\nBan đầu, Tư Mã Quang đặt tên sách là \"Thông chí\", sau đó Tống Thần Tông đổi tên sách thành Tư trị thông giám với hàm ý nhìn việc xưa để thấy rõ việc ngày nay.\nNgoài Tư Mã Quang đóng vai trò chủ biên, những người biên soạn còn có Lưu Thứ, Lưu Ban, Phạm Tổ Vũ và con trai Tư Mã Quang là Tư Mã Khang.\nTheo sự phân công của Tư Mã Quang:\nBộ sách là kết quả lao động cật lực của các tác giả sau 19 năm. Để có được công trình này, Tư Mã Quang và các cộng sự đã bỏ ra gần như cả cuộc đời nghiên cứu, khảo chứng. Khi bộ sách hoàn thành năm 1084, Lưu Ban 62 tuổi trông già như ông lão 80, Phạm Tổ Vũ mới 43 tuổi tóc đã bạc, còn Tư Mã Quang 65 tuổi, tóc bạc da mồi và răng rụng. Cuối năm 1084, dù trời mùa đông đầy tuyết, Tư Mã Quang vẫn đóng sách vào 10 chiếc hòm được trang trí chạm trổ lộng lẫy và thân chinh áp tải từ Lạc Dương đến Biện Kinh dâng lên Tống Thần Tông. Khi Tư trị thông giám được mang in ấn nhân bản chưa đầy 1 tháng (1086) thì Tư Mã Quang qua đời vì lao lực.\nSử liệu và biên soạn.\nTriều đình rất ủng hộ việc soạn sách của Tư Mã Quang, cung cấp cho ông nguồn sử liệu phong phú và đa dạng:\nTổng cộng số sách mà Tư Mã Quang và những người cộng sự đã tham khảo để soạn Tư trị thông giám lên đến gần 4 vạn cuốn. Thời đó sách đã được in trên giấy, tương truyền số sách tham khảo chất đầy 2 gian phòng.\nQuá trình biên soạn của Tư Mã Quang và những người phụ tá chia làm 3 bước:\nNội dung.\nTác phẩm Tư trị thông giám được viết theo thể biên niên, khái quát một thời kỳ lịch sử dài 1362 năm, từ năm 403 TCN thời Chiến Quốc đến năm 959 hết thời Hậu Chu. Toàn bộ tác phẩm có 294 quyển, có khoảng 3 triệu chữ, ngoài ra còn có 30 quyển mục lục, 30 quyển \"Khảo dị\" (khảo sát sự giống và khác nhau).\n\"Tư trị thông giám\" được chia thành 16 kỷ:\nTư Mã Quang viết \"Tư trị thông giám\" nhằm mục đích củng cố sự thống trị của triều đình nhà Tống nên nội dung cũng như hình thức mang màu sắc chính trị rõ nét, có thể gọi là sử chính trị. Căn cứ vào đức độ và tài năng của các bậc vua chúa, Tư Mã Quang chia thành năm loại: sáng nghiệp, thủ thành, lăng di, trung hưng và loạn vong. Những vua sáng nghiệp được đề cao như Hán Cao Tổ, Hán Quang Vũ Đế, Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông… Những ông vua thủ thành như Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế… Loại vua kém nhất là loại thứ 5: loạn vong như Trần Hậu Chủ, Tùy Dạng Đế…\nTư trị thông giám chú trọng đề cập đến nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong tiến trình phát triển của lịch sử. \nKhông chỉ ghi chép các sự kiện lịch sử, Tư Mã Quang còn đưa ra những bình luận, kiến giải về các sự kiện đó. Có phần do ông ghi lại lời bình chú của người đời trước, có phần do ông tự bình chú.\nĐặc điểm và giá trị.\n\"Tư trị thông giám\" được đánh giá là cuốn sử biên niên quan trọng hàng đầu của Trung Quốc. Cuốn sách cung cấp những bài học kinh nghiệm cho giai cấp thống trị theo tôn chỉ ban đầu mà cuốn sách đặt ra và thực sự là kiệt tác của sử học Trung Quốc. Nhà sử học đời nhà Thanh là Vương Minh Thịnh đã đánh giá đây là một cuốn sách \"không thể thiếu được trong trời đất, tất cả các học giả đều không thể không đọc\".\nNhững ưu điểm nổi bật của \"Tư trị thông giám\" là:\nTư trị thông giám có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử sử học Trung Quốc. Sự thành công của Tư Mã Quang được sánh ngang với tác phẩm Sử ký Tư Mã Thiên.\nCó một đặc điểm bị đánh giá là hạn chế của tác phẩm: thể lệ biên niên của sách chỉ biên chép 1 niên hiệu cuối cùng trong năm của các vua chúa, trên thực tế có những năm có hơn 1 niên hiệu lại không được nhắc đến, vì vậy gây khó khăn cho độc giả.\nBản dịch tiếng Việt.\nBộ \"Tư trị thông giám\" do nhóm Cổ Thư Lâu tổ chức dịch, Nhà xuất bản Văn học và Công ty TNHH Sách và Truyền thông Việt Nam xuất bản. ", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Haileymandi from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Haileymandi là một thị xã của quận Gurgaon thuộc bang Haryana, Ấn Độ.\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Haileymandi có dân số 17.072 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Haileymandi có tỷ lệ 69% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 76%, và tỷ lệ cho phái nữ là 62%. Tại Haileymandi, 14% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Raurkela Industrialship không ?", "role": "user" }, { "content": "Raurkela Industrialship là một thị xã của quận Sundargarh thuộc bang Orissa, Ấn Độ.\nNhân khẩu.\nTheo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Raurkela Industrialship có dân số 206.566 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Raurkela Industrialship có tỷ lệ 74% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 80%, và tỷ lệ cho phái nữ là 68%. Tại Raurkela Industrialship, 12% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Asota fereunicolor không ?", "role": "user" }, { "content": "Asota fereunicolor là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Nó được tìm thấy ở Comoros.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Bufo taladai?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Bufo taladai là một loài cóc thuộc họ Bufonidae.\nĐây là loài đặc hữu của Cuba.\nMôi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồng cỏ nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng ngập nước hoặc lụt theo mùa, sông ngòi, đầm nước ngọt, đất canh tác, vườn nông thôn, và rừng thoái hóa nghiêm trọng.\nChúng hiện đang bị đe dọa vì mất nơi sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Võ Minh Lâm", "role": "user" }, { "content": "Võ Minh Lâm (sinh năm 1989) là một nghệ sĩ cải lương Việt Nam. Anh là thí sinh nhỏ tuổi nhất và cũng là người đầu tiên đoạt giải Chuông vàng vọng cổ truyền hình khi giải này được tổ chức năm 2006.\nThân thế.\nAnh sinh ngày 22 tháng 8 năm 1989, tại thành phố Cần Thơ. Xuất thân trong gia đình có cha mẹ đều là nghệ sĩ cải lương, sống cuộc sống rày đây mai đó nên từ nhỏ, Võ Minh Lâm phải ở với bà nội để tiện việc học hành. Mỗi mùa hè, Lâm được ba mẹ đưa theo đoàn chơi, và cũng tập tành ca hát. Nhưng cho tới tận năm lớp 9, mơ ước của Lâm không phải là trở thành nghệ sĩ cải lương, mà là họa sĩ. Vậy mà không hiểu sao, học hết lớp 9, Lâm lại thi vào trường trung cấp Văn Hóa-Nghệ thuật của Cần Thơ, để bắt đầu bước chân vào nghề hát.\nVào nghề.\nGiải thưởng.\nGiấy khen đạt thành tích tốt trong Hội thi Giọng ca cải lương PTTH Sóc Trăng lần 2-2004 (15 tuổi)\nGiấy khen trong Liên hoan đờn ca tài tử quận Ninh Kiều 2005 (16 tuổi)\nGiải 3 cuộc thi ca, diễn cải lương Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền lần thứ 3 - 2005.\nGiấy khen trong Liên hoan đờn ca tài tử quận Ninh Kiều - Cần Thơ - 2006 (17 tuổi)\nGiải khuyến khích cuộc thi Giọng ca cải lương \"Sông Tràm\" lần 1 - 2006\nQuán quân cuộc thi “Ngôi Sao Vọng Cổ Truyền Hình” - 2006\nHuy chương vàng cuộc thi “Tài năng trẻ diễn viên sân khấu cải lương và dân ca kịch chuyên nghiệp toàn quốc\" - 2014\nHuy chương vàng giải Trần Hữu Trang\nGiải Mai Vàng 2021\nBước ngoặt.\nNăm 2006, khi đang học năm thứ 3 trường VH-NT, Lâm tham gia cuộc thi Chuông vàng vọng cổ truyền hình do HTV tổ chức và đoạt giải Chuông Vàng. Sau khi tốt nghiệp, Lâm chính thức được mời về đoàn Thắp sáng niềm tin của Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang và hoạt động đến nay. Sau này, anh còn tham gia Chuông vàng vọng cổ nhưng với những vai trò khác: người phụ diễn, giám khảo... Đặc biệt, vào năm 2022, anh đảm nhiệm vai trò dẫn chương trình.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Bulbophyllum pulchellum", "role": "user" }, { "content": "Bulbophyllum pulchellum là một loài phong lan thuộc chi \"Bulbophyllum\".\nTham khảo.\npulchellum]]", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Sundadoxa từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Sundadoxa là một chi bướm đêm thuộc họ Geometridae.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Agrypnus ryukyuensis nha ?", "role": "user" }, { "content": "Agrypnus ryukyuensis là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Kishii miêu tả khoa học năm 1985.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật Trung ương?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Trung ương (National Economic & Technical College - NETC) trực thuộc Liên minh Hợp tác xã Việt Nam là trường nằm trên địa bàn Thành phố Hà Nội, được thành lập năm 1992, nhiệm vụ chính của trường là đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ở trình độ cao đẳng và các trình độ thấp hơn phục vụ nền kinh tế quốc dân nói chung và khu vực kinh tế hợp tác nói riêng.\nĐội ngũ cán bộ giáo viên có trình độ, với 15% tiến sĩ, 85% thạc sĩ, lực lượng này hiện đang được bổ sung để nhà trường có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ tạo cơ sở cho sự phát triển trong tương lai.\nLịch sử phát triển.\nTrường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Trung ương tiền thân là Trường Bồi dưỡng Cán bộ quản lý Doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Training Center Managerment - TCM) theo quyết định ngày 05 tháng 11 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Trung ương các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.\nNgày 25 tháng 08 năm 2001 được phép của các cấp,Trường Bồi dưỡng Cán bộ quản lý Doanh nghiệp ngoài quốc doanh được đổi thành Trường cán bộ Hợp tác xã và Doanh nghiệp nhỏ (Vietnam Institute For Small Enterprises and Cooperative - VISEC).\nNgày 19 tháng 03 năm 2009 được phép của các Bộ, ngành, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 2414/QĐ-BGD&ĐT thành lập Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Trung ương (NETC).\nTiếp đó năm 2010, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tiếp tục có quyết định sáp nhập Trường cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Trung ương với Trường Trung học Quản lý và Công nghệ (Thành lập ngày 15/8/1978), có trụ sở chính tại Dương Xá - Gia Lâm - Hà Nội\nTrong quá trình hình thành và phát triển, Nhà trường đã từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, nội dung chương trình hướng từng bước hướng tới là trường trọng điểm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao của khu vực kinh tế hợp tác, hợp tác xã và của xã hội.\nHơn 40 năm xây dựng và trưởng thành, Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Trung ương đã đào tạo hàng chục nghìn cán bộ có trình độ cho xã hội và cho ngành. Được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng 3, nhiều bằng khen, cơ thi đua của Chính phủ và của ngành.\n27 năm xây dựng và phát triển (từ tháng 11/1992 đến nay) Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Trung ương đã hoàn thành nhiệm vụ to lớn là đào tạo, bồi dưỡng hàng chục vạn cán bộ quản lý khu vực kinh tế hợp tác và Hợp tác xã.\nVề Ban Giám hiệu: Gồm một đồng chí Hiệu trưởng và 1 Hiệu Phó\n-Hiệu trưởng: ThS Nguyễn Danh Hùng\n- Hiệu Phó: ThS Phạm Minh Đức,\nCác Khoa.\nTrường hiện có 6 Khoa và 5 ngành đào tạo:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Họ Mây nước", "role": "user" }, { "content": "Họ Mây nước (danh pháp khoa học: Flagellariaceae) là một họ nhỏ trong thực vật có hoa. Họ này ít được các nhà phân loại học công nhận.\nHệ thống APG II năm 2003 (không thay đổi từ hệ thống APG năm 1998), công nhận họ này và gán nó vào bộ Poales trong nhánh Thài lài (\"commelinids\") của nhóm thực vật một lá mầm (\"monocots\"). Họ này chỉ chứa 1 chi duy nhất, với 4 loài, được tìm thấy trong các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới của Cựu thế giới và Australia.\nHệ thống Cronquist năm 1981 đặt họ này trong bộ Restionales.\nPhát sinh chủng loài.\nCây phát sinh chủng loài dưới đây lấy theo APG III.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Poucharramet không ?", "role": "user" }, { "content": " Poucharramet là một xã thuộc tỉnh Haute-Garonne trong vùng Occitanie tây nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 235 mét trên mực nước biển.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Acrocercops insulella không ?", "role": "user" }, { "content": "Acrocercops insulella là một loài bướm đêm thuộc họ Gracillariidae. Nó được tìm thấy ở Saint Vincent và the Grenadines và Cộng hòa Dominica. Nó được miêu tả bởi Walsingham, Lord Thomas de Grey năm 1891.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Camiran á", "role": "user" }, { "content": " Camiran là một xã thuộc tỉnh Gironde trong vùng Nouvelle-Aquitaine tây nam nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Colletotrichum capsici?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Colletotrichum capsici là một sinh vật gây bệnh cho cây khiến rụi lá ở các loài \"Chlorophytum borivilianum\", húng quế, đậu hồi và ớt cũng như bệnh lụi mầm con ở đậu săng và thối cây ở cây trạng nguyên.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Liên đoàn bóng đá Việt Nam", "role": "user" }, { "content": "Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (LĐBĐVN; ), tên đầy đủ hơn là Liên đoàn Bóng đá nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hay còn có tên gọi khác nữa trên giới truyền thông quốc tế là Hiệp hội bóng đá Việt Nam, là tổ chức quản lý và điều hành tất cả các hoạt động bóng đá ở Việt Nam.\nVFF hiện là thành viên của Liên đoàn Bóng đá Quốc tế (FIFA), Liên đoàn bóng đá châu Á (AFC) và Liên đoàn bóng đá Đông Nam Á (AFF). Trụ sở VFF nằm ở đường Lê Quang Đạo, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.\nChủ tịch hiện tại của VFF là ông Trần Quốc Tuấn và Tổng thư ký là ông Dương Nghiệp Khôi .\nLịch sử.\nTổ chức tiền thân của Liên đoàn bóng đá Việt Nam là Hội bóng đá Việt Nam (\"Vietnam Football Association,viết tắt là VFA\"). Hội thành lập năm 1960 có chủ tịch là Hà Đăng Ấn và phó chủ tịch là Trương Tấn Bửu.\nTháng 8 năm 1989 tại Đại hội lần thứ nhất, Liên đoàn Bóng đá Việt Nam ra đời thay thế Hội bóng đá Việt Nam, chủ tịch liên đoàn là Trịnh Ngọc Chữ, phó chủ tịch là Ngô Xuân Quýnh, Trần Vĩnh Lộc và Lê Bửu. Tổng thư ký là Lê Thế Thọ.\nLiên đoàn đã tổ chức thêm 8 lần đại hội vào các năm 1993, 1997, 2001, 2005, 2009, 2014, 2018 và 2022.\nLiên đoàn thành viên.\nHiện tại có 24 tổ chức liên đoàn bóng đá tỉnh thành là thành viên của VFF:\nBiểu trưng.\nBiểu trưng hiện tại của VFF khắc họa hình ảnh một quả bóng đá cùng với lá cờ Việt Nam. Nó được thiết kế bởi Nguyễn Công Quang và được sử dụng từ năm 2008 đến nay.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Information of Drephalys is on wikipedia, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Drephalys là một chi bướm ngày thuộc họ Bướm nâu.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Locunolé từ bách khoa toàn thư nha ?", "role": "user" }, { "content": "Locunolé () là một xã của tỉnh Finistère, thuộc vùng Bretagne, miền tây bắc Pháp.\nDân số.\nNgười dân ở Locunolé được gọi là \"Locunolois\".", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Euhesma symmetra", "role": "user" }, { "content": "Euhesma symmetra là một loài Hymenoptera trong họ Colletidae. Loài này được Exley mô tả khoa học năm 1998.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn đưa thông tin về Pleodendron không ?", "role": "user" }, { "content": "Pleodendron là một chi thực vật thuộc họ Canellaceae.\nBao gồm các loài:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Leszek Kołakowski from the encyclopedia?, in Vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Leszek Kołakowski (23 tháng 10 năm 1927 – 17 tháng 7 năm 2009) là triết gia và sử gia người Ba Lan nổi tiếng về các tác phẩm nghiên cứu đánh giá Học thuyết Marx, đặc biệt là cuốn sách ba tập \"Main Currents of Marxism\", được một số người đánh giá là \"một trong những cuốn sách về học thuyết chính trị quan trọng nhất của thế kỷ 20.\" Ông cũng là viện sĩ của Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật châu Âu.\nTiểu sử.\nKołakowski sinh ra tại Radom, Ba Lan, xuất thân từ một gia đình trí thức cánh tả. Cha ông bị Gestapo thủ tiêu trong Đệ Nhị thế chiến. Sau chiến tranh, ông học triết tại đại học Łódź và trở thành đảng viện đảng Cộng sản ở đó. Ông tốt nghiệp tiến sĩ vào năm 1953 tại đại học Warszawa. Ông là giáo sư và khoa trưởng ngành triết học lịch sử tại đại học Warsaw từ năm 1959 cho tới 1968, mặc dù từ năm 1956 ông đã chỉ trích chế độ Xã hội Hiện thực:\n1966 Kołakowski bị loại ra khỏi đảng Cộng sản và 1968 ông bị cấm dạy học vì ủng hộ nhóm sinh viên đối lập trong cuộc khủng hoảng chính trị tháng 3 năm 1968. Kołakowski ra nước ngoài và được phép dạy tại McGill University ở Montreal. 1969 ông dạy được 1 năm ở [[University of California, Berkeley (California), trước khi ông vào năm 1970 chuyển về dạy tại All Souls College thuộc Universität Oxford.\nTừ năm 1975 Kołakowski cũng dạy tại [[Yale University]], và từ 1981 tại University of Chicago. Cho tới khi chế độ cộng sản bị sụp đổ vào năm 1989, Kołakowski bị cấm không được trở về Ba Lan.\nLeszek Kolakowski qua đời tại Oxford, Anh Quốc ngày 17 tháng 7 năm 2009, thọ 82 tuổi, để lại nhiều phân tích có giá trị về giai đoạn cộng sản và toàn cầu hóa.\n[[Hình:Leszek Kołakowski - Cmentarz Wojskowy na Powązkach (10).JPG|nhỏ|Mộ Kołakowski ở Warschau]]\nLiên kết ngoài.\n[[Thể loại:Người đoạt giải Erasmus]]\n[[Thể loại:Sinh năm 1927]]\n[[Thể loại:Mất năm 2009]]\n[[Thể loại:Giáo sư Ba Lan]]\n[[Thể loại:Giải thưởng MacArthur Fellows]]\n[[Thể loại:Nhà triết học Ba Lan]]\n[[Thể loại:Triết gia thế kỷ 20]]\n[[Thể loại:Nhà sử học cộng sản]]\n[[Thể loại:Người chống cộng Ba Lan]]", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cung cấp thông tin về Triepeolus robustus từ bách khoa toàn thư không ?", "role": "user" }, { "content": "Triepeolus robustus là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Cresson mô tả khoa học năm 1878.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Lũng Nhai không ?", "role": "user" }, { "content": "Lũng Nhai là một địa danh nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam. Nơi đây, vào khoảng tháng 2, tháng 3 năm Bính Thân (1416), đã diễn ra hội thề Lũng Nhai do Lê Lợi cùng 18 người bạn tổ chức. Hội thề đã làm lễ tế cáo trời đất, kết nghĩa anh em, nguyện hợp sức đánh đuổi ách thống trị của quân Minh. Hội thề là khởi đầu hình thành bộ chỉ huy và lực lượng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau đó hai năm (1418).\nVị trí Lũng Nhai ngày nay.\nTheo nhiều nhà sử học có tên tuổi trong nước công bố chính thức trong các công trình biên soạn về khởi nghĩa Lam Sơn, vị trí Lũng Nhai được xác định tại tên một làng ven sông Âm, ở chân núi Bù Me, nay là làng Lũng Mi (tên nôm gọi là làng Mé, gồm Mé Trên và Mé Dưới), thuộc xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách Lam Sơn 12 km về phía Tây.\nTuy nhiên, theo học giả Phạm Tấn thì vị trí Lũng Nhai nhiều khả năng nằm tại khu vực giáp ranh thôn Như Áng (thuộc xã Kiên Thọ) và làng Miềng (thuộc xã Phúc Thịnh), huyện Ngọc Lặc, Thanh Hóa, ở phía tây nam núi Dầu (tức núi Lam Sơn, còn gọi là núi Cham). Vị trí này cách Lam Kinh trên dưới một cây số đường chim bay, có ngọn núi gọi là núi Miềng, giáp liền với sông Chu (sông Lương). Người Mường địa phương ở đây còn gọi quả núi thấp ở đây là núi Bàn Thề và thung lũng nhỏ hẹp tại đấy là Lũng Nhai, hay ruộng Bàn Thề. Gần đó cũng có một thung lũng nhỏ được gọi là Lũng Mi. Nơi đây xưa kia thuộc địa bàn của hương Lam Sơn, sách Khả Lam và lộ Khả Lam, huyện Lương Giang thời Trần – Hồ, là nơi tằng tổ của Lê Lợi là Lê Mỗi (bố Lê Hối) đã rời từ trang Bái Đô sang để ở (theo gia phả họ Lê ở Thọ Ngọc).", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Candidoni nhé", "role": "user" }, { "content": "Candidoni () là một đô thị ở tỉnh Reggio Calabria trong vùng Calabria, Ý, có cự ly khoảng 60 km về phía tây nam của Catanzaro và khoảng 60 km về phía đông bắc của Reggio Calabria. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 399 người và diện tích là 26,6 km².\nCandidoni giáp các đô thị: Laureana di Borrello, Limbadi, Mileto, Nicotera, Rosarno, San Calogero, Serrata.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Give me information about Trichosetodes anysa from the wiki, in vn language", "role": "user" }, { "content": "Trichosetodes anysa là một loài Trichoptera trong họ Leptoceridae. Chúng phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "(31118) 1997 RN1 ?", "role": "user" }, { "content": "(31118) 1997 RN1 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện qua chương trình tiểu hành tinh Beijing Schmidt CCD ở trạm Xinglong ở tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc ngày 1 tháng 9 năm 1997.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về 5247 Krylov nha ?", "role": "user" }, { "content": "5247 Krylov (1982 UP6) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 20 tháng 10 năm 1982 bởi L. G. Karachkina ở Nauchnyj.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Oskar Pastior?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Oskar Pastior (20.10.1927 – 4.10.2006) là nhà thơ và dịch giả người Đức gốc România. Ông là thành viên người Đức duy nhất của Oulipo.\nCuộc đời và sự nghiệp.\nSinh trong một gia đình người Sachsen Transilvania ở Sibiu (Hermannstadt), ông bị đày tới Trại cải tạo lao động của Liên Xô năm 1945 bởi Lực lượng Xô Viết chiếm đóng Romania. Oskar Pastior thuộc thành phần 100.000 thành viên của Rumäniendeutsche, những người bị đày ải như người Đức lao động cưỡng bách ở Liên Xô trong tháng 1 năm 1945, mà phần lớn những người sống sót đã được phóng thích trong các năm 1948/49.\nÔng trở lại Romania năm 1949, và học ngành Đức học ở Đại học Bucharest từ năm 1955. Sau khi tốt nghiệp, ông làm việc cho ban tiếng Đức của Công ty Truyền thanh Romania. Năm 1964, ông xuất bản tuyển tập thơ đầu tiên của mình tên là \"Offne Worte\".\nSau khi bị Securitate giám sát trong 4 năm, Pastior trở thành người chỉ điểm cho Securitate năm 1961 với bí danh là \"Otto Stein\". cho tới năm 1968, khi ông được một học bổng sang học ở Vienne (Áo) và lìa bỏ chế độ Cộng sản Romania. Vụ làm chỉ điểm mãi tới năm 2010 mới được biết đến, 4 năm sau khi ông qua đời.\nPastior di chuyển sang Đức, ban đầu sống ở München, sau đó ở Tây Berlin cho tới cuối đời. Ông nổi tiếng về những bản dịch văn học Romania sang tiếng Đức (trong số đó có các tác phẩm của Tudor Arghezi, George Coşbuc, Tristan Tzara, Gellu Naum, Marin Sorescu, và Urmuz).\nNăm 2009 quyển tiểu thuyết \"Everything I Possess I Carry With Me\" của nhà văn đoạt giải Nobel Herta Müller, dựa trên những kinh nghiệm thời trẻ của Pastior khi bị đày tới Trại cải tạo lao động của Liên Xô. Ban đầu, Pastior và Müller đã có kế hoạch viết chung một quyển sách về những kinh nghiệm của ông ở Trại cải tạo lao động của Liên Xô, nhưng năm 2006 thì Pastior từ trần.\nOskar Pastior qua đời ngày 4.10.2006 tại Frankfurt am Main\nGiải thưởng mang tên Pastior.\nTheo di chúc của ông, hiện nay \"Quỹ Oskar Pastior\" đã lập ra \"Giải Oskar Pastior\" dành cho những tác giả văn học thực nghiệm với khoản tiền thưởng là 40.000 euro.\nGiải bắt đầu được trao từ năm 2010 trong một buổi lễ trao giải tổ chức ở Tòa thị chính thành phố Berlin ngày 28.5.2010 cho Oswald Egger.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho tôi thông tin về Loon, Bohol từ wiki nha", "role": "user" }, { "content": "Loon là đô thị hạng 2 ở tỉnh Bohol, Philippines. Theo điều tra dân số năm 2007, đô thị này có dân số 42.441 người.\nCác đơn vị hành chính.\nLoon về mặt hành chính được chia thành 67 khu phố (barangay).", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Centris tamarugalis, bạn có thông tin nó ?", "role": "user" }, { "content": "Centris tamarugalis là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Toro & Chiappa mô tả khoa học năm 1989.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về (15871) 1996 QX1 nhé", "role": "user" }, { "content": "(15871) 1996 QX1 là một tiểu hành tinh vành đai chính. Nó được phát hiện bởi Seiji Ueda và Hiroshi Kaneda ở Kushiro, Hokkaidō, Nhật Bản, ngày 24 tháng 8 năm 1996.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Cho xin thông tin về Pseudophoxinus callensis nhé", "role": "user" }, { "content": "Pseudophoxinus callensis là một loài cá vây tia thuộc họ Cyprinidae.\nLoài này có ở Algérie và Tunisia.\nMôi trường sống tự nhiên của chúng là sông ngòi và hồ nước ngọt.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Rhophitulus anomalus ?", "role": "user" }, { "content": "Rhophitulus anomalus là một loài Hymenoptera trong họ Andrenidae. Loài này được Moure & Lucas de Oliveira mô tả khoa học năm 1962.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của Angraecum ramosum á", "role": "user" }, { "content": "Angraecum ramosum là một loài lan.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Can you provide information about Oreolalax liangbeiensis from the encyclopedia?, in vietnamese language", "role": "user" }, { "content": "Oreolalax liangbeiensis là một loài lưỡng cư thuộc họ Megophryidae. Chúng là loài đặc hữu của Trung Quốc.\nCác môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về Panthea acronyctoides không ?", "role": "user" }, { "content": "Panthea acronyctoides (tên tiếng Anh: \"Zigzag đen\") là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Nó được tìm thấy từ Newfoundland to British Columbia và adjacent các bang miền bắc, phía nam ở phía tây đến Colorado, phía nam ở phía đông đến New England và Kentucky.\nSải cánh dài 30–35 mm. Con trưởng thành bay từ tháng 5 đến tháng 8 tùy theo địa điểm.\nẤu trùng ăn Balsam Fir, miền đông Hemlock, miền đông Larch, Pines, và Spruces.\nPhụ loài.\nCó hai phụ loài được công nhận:", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Mình cần thông tin của 27985 Remanzacco á", "role": "user" }, { "content": "27985 Remanzacco (1997 VC1) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 12 tháng 11 năm 1997 ở Remanzacco (Ý).", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Kiến thức hoặc thông tin về Roquiague", "role": "user" }, { "content": "Roquiague () là một xã thuộc tỉnh Pyrénées-Atlantiques trong vùng Nouvelle-Aquitaine miền tây nam nước Pháp.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Bạn có thể cho tôi biết thông tin về 19625 Ovaitt nha ?", "role": "user" }, { "content": "19625 Ovaitt (1999 RT11) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 7 tháng 9 năm 1999 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln ở Socorro.", "role": "assistant" } ]
[ { "content": "You are a trustworthy AI assistant. Your task is to answer the question honestly and not fabricate information.", "role": "system" }, { "content": "Thông tin của Jocasta ở wikipedia", "role": "user" }, { "content": "Jocasta có thể là:", "role": "assistant" } ]