title
stringlengths
4
119
content
stringlengths
90
172k
metadata
dict
Nàng Xuân Hương
Ngày xưa ở tỉnh Bắc có nàng con gái trong trắng như hoa thủy tiên nên có tên là Xuân Hương. Cha nàng là một ông đồ nhà nghèo, đã mất từ lâu. Nàng ở với mẹ, hai mẹ con tần tảo nuôi nhau. Vào thời ấy, các cô gái con nhà gia thế thường được bố mẹ cho đi học. Xuân Huong lúc nhỏ có được bố dạy cho chữ nghĩa, nên cô cũng biết võ vẽ. Năm mười lăm tuổi, nàng xin phép mẹ đến học ở trường một cụ đồ già trong làng. Ngày ấy có một chàng thư sinh đẹp trai họ Tống, tên là Như Mai, con một viên quan đầu tỉnh. Vốn sẵn thông minh, chàng chuyên tâm vào nghiệp đèn sách, quyết nêu tên trên bảng vàng. Một hôm vào ngày tết đoan ngọ, Như Mai cùng một tiểu đồng đi dạo cảnh. Qua lớp học của cụ đồ già, chàng thoáng thấy có mấy cô gái đang nô đùa sau vườn một ngôi chùa cổ. Dưới gốc cây đa, có một cô bíu vào rễ phụ đu đi đu lại là là mặt đất, đó là nàng Xuân Hương. Sắc đẹp của nàng khiến chân chàng không đành cất bước. Hai thầy trò thơ thẩn hồi lâu trước cổng chùa. Chàng buột miệng khen: - Ôi! Ta đã từng nghe ca ngợi con gái xứ Bắc, nhưng chắc chưa có ai xinh bằng cô gái đánh đu vừa rồi. Từ đó Như Mai thường lấy cớ đi lại ngôi chùa cổ. Tưởng nhớ đến người đẹp đánh đu, có đường ngôi trắng giữa hai mái tóc xanh, khiến chàng mất ăn mất ngủ. Tiểu đồng thấy chủ biếng học thì khuyên dỗ hết lời, nhưng Như Mai vẫn không thể quên được. Một hôm thấy chủ giục mình lại cùng đi chơi chùa, tiểu đồng đe mách với bố chàng. Như Mai năn nỉ: - Đừng. Nếu mày là tâm phúc của ta thì không những phải giấu kín cho ta, mà còn nên giúp ta cho được việc. Tiểu đồng đáp: - Nếu quan lớn biết thì công tử bị phạt đã đành, còn tôi thân phận hèn hạ, chịu làm sao nổi roi vọt. - Nếu thế thì ta sẽ ở nhà học bài, còn mày hãy vì ta một mình đi dò xem cô nàng tên là gì, con gái nhà ai, có cách gì gặp gỡ được chăng, thì ta sẽ trọng thưởng. Ba hôm sau, tiểu đồng trở về cho chủ biết về nàng Xuân Hương. Nó còn ghé vào tai dặn nhỏ: - Nếu công tử cho tôi một món tiền lớn, tôi sẽ bày cách làm cho công tử có thể gần gũi cô nàng. Như Mai thủng thỉnh đáp: - Được! Mày muốn bao nhiêu cũng có, miễn là việc xong. Khi có tiền trong tay, tiểu đồng liền sắm cho chủ một bộ áo xống phụ nữ và dặn chàng: - Tôi thấy công tử có nước da trắng trẻo, bộ mặt và giọng nói y như con gái, nên nghĩ rằng nếu công tử đóng bộ này vào thì không mấy chốc sẽ được làm quen với nàng. Công tử thử mặc vào cho tôi xem. Quả nhiên sau khi cải trang, Như Mai đã biến thành một cô gái duyên dáng không một ai có thể ngờ là trai. Sau đó, theo lời kể của tiểu đồng, Như Mai tìm đến nhà Xuân Hương. Gặp bà mẹ nàng, Như Mai chào hỏi đon đả, nói dối mình là ái nữ của quan đầu tỉnh, năm nay tuổi vừa đôi tám, học tại một trường gần đây, nhân ngày nghỉ đi mua ít tấm lụa. Bà mẹ Xuân Hương không nghi ngờ gì cả, liền gọi con gái ra tiếp. Nghe nói Như Mai là con quan, lại học giỏi, Xuân Hương tỏ ra ân cần và muốn làm quen. Sau khi chuyện trò mua bán đã xong, nàng dặn lúc chia tay: - Thỉnh thoảng mời chị tới chơi hai ta cùng giảng bàn nghĩa sách. Từ đấy, Như Mai năng đến nhà Xuân Hương. Chẳng mấy chốc hai người đã trở thành đôi bạn. Tài học của Như Mai làm cho Xuân Hương kính phục, thường nhờ vả về văn bài. Về phía Như Mai, chưa bao giờ lòng chàng tràn ngập niềm vui đến như thế. Tuy vậy, chàng vẫn giữ lòng mình đứng đắn, chưa có gì tỏ ra sàm sỡ. Một hôm Xuân Huong rủ Như Mai ngủ lại nhà mình. Biết đây là dịp may hiếm có, nhưng Như Mai cũng từ chối, lấy cớ là chưa được lệnh bố mẹ. Nhưng rồi sau đó ít lâu, một cơ hội khác lại đến. Hôm ấy bà mẹ Xuân Hương về ăn giỗ quê ngoại. Thấy Như Mai đến vừa đúng lúc, mẹ Xuân Hương bèn năn nỉ bảo ở lại với con mình mấy hôm để có chị có em cho đỡ cô quạnh. Như Mai nhận lời. Buổi chiều hôm ấy, sau khi hai người đã vùi đầu chán chê vào thơ phú, bè rủ nhau đi dạo chơi trong vườn chùa. Họ vừa đi vừa đàm đạo cho tới lúc trăng mọc. Bỗng dưng Xuân Hương hụt chân ngã chúi về phía trước, nhưng nàng đã được Như Mai nhanh tay ôn lấy, Xuân Hương thốt lên: - Cảm ơn chị. Ôi nếu chị là con trai thì tôi phải lòng chị mất! Như Mai đỡ lời ngay: - Nhớ lấy nhé! Một lời nói như ném châu gieo vàng. Chị sẽ cầu Phật bà độ cho hóa thành con trai. Lúc đó thì em có phải lòng nữa không? Đang đà nói đùa, Xuân Hương trả lời ngay: - Sao lại không. Tôi xin thề có trời đất... - Không được. Thề cá trê chui ống. Nếu thật thế thì hãy viết giấy cam đoan chị mới tin. - Khó gì, về nhà sẽ có ngay. Về đến nhà, Xuân Hương lập tức lên đèn, viết giấy đưa cho Như Mai. Đợi khi hai người lên giường, Như Mai bèn trút bỏ đồ cải trang thành một chàng trai khỏe mạnh. Thấy vậy Xuân Hương chẳng còn hồn vía nào nữa, hai tay che mặt kêu lên: - Trời đất ơi! Ta mắc tay bợm già rồi. Ngươi là ai dám đến đây lừa ta. Ta kêu làng xóm lên bây giờ. Nói đoạn ngồi dậy toan chạy, nhưng Như Mai đã nắm lấy tay nàng: - Nàng chớ sợ. Ta không làm hại nàng đâu. Rồi ta sẽ xin cưới nàng làm vợ. Nói rồi kể tất cả mọi việc cho Xuân Hương nghe, những là gia thế, học hành ra sao, rồi từ phen kỳ ngộ ở vườn chùa, sinh ra đêm mơ ngày tưởng như thế nào, cho đến lúc tiểu đồng hiến kế cải trang, v.v... Đoạn chàng nói: - Ta vì nàng phí bao nhiêu tâm cơ, đâu phải vì chuyện "trên bộc trong dâu" chốc lát, mà cốt để trở thành đôi lứa trăm năm bạc đầu. Trong khi Như Mai dùng lời dịu ngọt dỗ dành, thì Xuân Hương chỉ ngồi khóc. Hồi lâu nàng bảo: - Không được, rồi chàng sẽ bỏ tôi như thay một cái áo, tháo một bức phên. Tôi là con nhà dân làm sao có thể kết duyên với con nhà quan được chứ. Như Mai đáp: - Nói trên có trời, dưới có đất, trước mặt có bóng thần đăng: dù mẹ cha có ngăn trở thế nào, ta thề sẽ không đời nào bỏ nàng. - Vậy thì chàng hãy làm giấy đi! Lại đến lượt Như Mai làm giấy cam đoan. Trong giấy chàng trịnh trọng hứa quyết cưới Xuân Hương làm vợ. Nếu bỏ nàng thì trời tru đất diệt. Bấy giờ Xuân Hương mới tỏ bộ vui vẻ, cầm lấy giấy, nói: - Chàng đã làm cho tôi tin. Nhưng liệu hồn đấy! Nếu chàng mà lừa dối tôi thì tôi sẽ đi thưa, thưa cho đến tận tòa Tam pháp chứ chẳng chơi đâu. Ngày hôm sau Như Mai ra về sau khi đã được toại nguyện. Đột nhiên sau đó ba hôm, thân phụ chàng có chỉ của vua triệu về kinh làm chức học sĩ. Chàng cũng bị buộc phải đi theo để được phụ thân rèn cặp. Nghe tin này, Xuân Hương tưởng nghe tiếng sét. Nhưng Như Mai lại coi là dịp tốt. Chàng hết sức an ủi nàng, cho nàng biết rằng chuyến này đi xa, chàng sẽ cố công học tập thành tài, vì chốn kinh kỳ có nhiều sách hay thầy giỏi. Một khi công thành danh toại, chàng mới có cách để xin chính thức cưới nàng. Khi chia tay, chàng còn dặn: - Dù có đá nát vàng phai, ta cũng chỉ biết có nàng. Đổi lại ta chỉ xin nàng một lòng chờ đợi. Ngày lại ngày nối nhau trôi qua. Tống Như Mai từ ngày theo thân phụ về kinh đã được năm năm. Trong thời gian này, chàng ra sức dùi mài kinh sử. Lòng càng nhớ Xuân Hương, chàng lại càng để tâm vào việc học tập. Quả nhiên công phu của chàng không uổng. Khoa thi năm ấy, chàng đậu đầu, rồi tiếp tục vào thi đình, đậu luôn trạng nguyên. Thấy chàng con trẻ tuổi mà thông minh, nhà vua phong làm khâm sai đại thần, cho đi thanh tra các tỉnh. Chàng vuii vẻ nhận chức. Trước hết, chàng xin phép về công cán tỉnh Bắc, nhân thể thăm dò tình hình người yêu năm năm qua không một tin tức. Lại nói chuyện Xuân Hương. Từ ngày chia tay Như Mai, lòng nặng buồn rười rượi. Tin ở lời thề thốt của chàng, nàng quyết một lòng chờ đợi. Có nhiều đám đến dạm hỏi, nàng đều từ chối. Để cho bọn con trai khỏi theo đuổi, nàng bỏ vào tất cả những áo xống đẹp cùng hoa hột vòng xuyến mà Như Mai cho mình rồi đem chôn cất. Nàng bỏ học, ăn mặc nâu sồng, ở nhà giúp mẹ nuôi tằm trồng dâu. Tuy nhiên nàng vẫn không giấu được nhan sắc nhạn sa cá lặn của mình. Một viên án mới bổ đến, nghe tiếng đồn về sắc đẹp Xuân Hương thì trong lòng hâm mộ. Gặp nàng ở chợ buông lời trêu ghẹo, nhưng nàng nghiêm sắc mặt cự tuyệt. Quan giận để bụng, sau đó ít lâu ngầm cho người đến gây sự với nàng đặt điều về việc bội hôn, để việc đưa đến cửa công, cuối cùng quan cho bắt nàng giam lại. Vẫn chưa cam thất vọng, quan lại sai người thân tín vào nhà giam dỗ dành, hứa nếu nàng thuận theo mình thì sẽ được làm nàng hầu, ăn mặc sung sướng, nhược bằng không thuận sẽ làm cho nhục nhã. Một lần nữa quan án lại bị nàng nhiếc mắng ê chề. Hôm sau, Xuân Hương liền bị quan kết tội bội hôn và lăng mạ trưởng quan, bị đánh đòn 80 roi trước công chúng. Ngày gia hình đã đến. Hôm ấy cũng là ngày phiên chợ, nên người đông nghìn nghịt. Trên một cái bàn gần chợ, quân lính sắp hàng chỉnh tề. Xuân Hương tay bị trói, do một người lính điệu ra trước mặt các quan để tuyên án. Một tên lính cầm roi sắp sửa giáng vào người nàng. Nhưng giưa lúc viên đề lại tội trạng, thì hàng quân bỗng dạt ra, nhường chỗ cho một người đang cưỡi ngựa tiến vào, theo sau có một tên lính cầm cờ có hai chữ "khâm sai". Thấy vậy, mọi người đều sụp lạy. Người cưỡi ngựa chính là Tồng Như Mai. Nguyên khi ra đến tỉnh Bắc, chàng cho lính hầu giữ kín mọi việc, riêng mình cải trang thành một người hành khất. Chàng không ngờ người yêu của mình đang lâm nạn. Tay bị tay gậy, chàng đã đến với từng người tìm hiểu sự thật về Xuân Hương. Người ta cho biết nàng là con người đoan chính, rằng nàng không chịu lấy ai, chỉ thủ tiết đợi chờ một chàng thư sinh nào đó đang theo học ở kinh kỳ. Khi hỏi về viên quan án, ai nấy đều tỏ vẻ khinh bỉ, rủa là đồ chó lợn, chỉ quen hối lộ và làm điều phi pháp, nhưng vì sợ thần sợ thế, nên chẳng ai dám ho he. Sau khi nắm được mọi chân tơ kẽ tóc, Tống Như Mai trở lại với bộ áo mão thanh tra. Vừa nhảy xuống ngựa, đợi cho mọi người ngẩng đầu lên, chàng dõng dạc lên tiếng: - Hỡi ba quân và dân chúng! Ta là khâm sai đại thần, vâng lệnh hoàng đế đi thanh tra các tỉnh xứ Bắc này. Ta đã tra cứu kỹ, thấy nàng Xuân Hương không làm gì nên tội, đáng được tha bổng. Còn tội nhân lại chính là nguyên cáo và vị quan đã xử án nàng. Hãy bắt giam chúng lại đợi ta thẩm vấn. Các hàng lính ai nấy đều dạ ran. Những người dân đứng vây vòng trong vòng ngoài, trong đó có những bạn học của Xuân Hương hò reo như sấm dậy. Tên lính giải Xuân Hương không kịp tìm dao, dùng răng cắn đứt dây trói cho nàng, lại tháo xiềng xiềng quan án và tên vu cáo lại. Khi biết quan thanh tra là Như Mai, Xuân Hương mừng đến té xỉu. Mọi người vội vực nàng về chạy chữa. Sau đó không lâu, quan thanh tra trẻ tuổi tâu trình lên vua và không quên xin phép cưới nàng Xuân Hương làm vợ. Nhà vua thấy cuộc tình duyên ly kỳ, nên y cho. Lễ cưới tổ chức linh đình trong ba ngày. Ngày cưới, bà mẹ Xuân Hương vui vẻ bảo mọi người: - Ta không có con trai, nhưng con gái ta lại làm ta đẹp lòng hơn có con trai.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nang-xuan-huong" }
Hai ông tiên
Ngày xưa, có một người con trai tên là Hiếu, cha làm nghề đốn củi bị cọp tha mất, còn một mẹ già với mấy em dại, Hiếu phải ngày ngày đi vào rừng, làm lụng khó nhọc để nuôi mẹ và các em. Một buổi chiều đông giá rét, Hiếu đang gánh hai bó củi nặng ở rừng về, đến một lối quanh, trông thấy một người nằm như chết bên đường. Hiếu đỡ lên thì thấy một ông lão cóng người vì đói rét, sờ ngực hãy còn thoi thóp, bèn cõng về nhà. Mẹ con tận tình săn sóc cho ông lão tỉnh dậy và nuôi nấng khách cho đến khi mạnh hẳn, mặc dù trong nhà hết sức túng thiếu. Đêm hôm trước ngày từ giã, ông lão gọi Hiếu mà bảo rằng: - “Đáp lại lòng tốt của nhà này đối với lão trong lúc hoạn nạn, lão tiết lộ thiên cơ cho biết rằng Sổ Tử của Thiên Tào đã có ghi tên anh năm nay phải chết." Anh muốn thoát khỏi thì hãy nhớ theo lời lão dặn đây: - “Ngày mồng một tháng tới, anh nhớ dậy thật sớm, mang theo một bầu rượu với hai cái chén, qua khỏi khu rừng này, nhắm mặt trời mọc mà đi đến một nơi có hồ xanh ngắt rồi trèo lên núi, vòng trái ngọn thác, lên tới đỉnh, thì thấy hai ông tiên ngồi đánh cờ. Anh phải lặng lẽ tới gần, chờ khi nào họ gọi rượu uống thì anh rót rượu đưa ra, rồi đợi hai ông tiên đánh cờ xong hẵng thưa chuyện xin xóa tên anh trong Sổ Tử”. Sáng hôm sau, Hiếu nhận thấy ông lão đã biến đâu mất. Đến ngày mồng một, trời chưa sáng, Hiếu đã đeo bầu rượu, cầm hai chén tống ra đi. Qua khỏi khu rừng, Hiếu đi theo một con đường mới, nhắm theo hướng mặt trời đi đến một cái hồ nước xanh leo lẻo. Trong khu rừng đưa đến chân núi, lần đầu tiên Hiếu được nghe những tiếng chim hót thánh thót như nhạc, rồi đi được một quãng, vẳng nghe tiếng thác đổ xa xa. Hiếu lần đi về phía này, vòng trái thác nước, rồi đến ven rừng, trước một cảnh núi non kỳ tú và chan hòa ánh sáng. Dưới tàn bóng cây thông, hai ông lão tiên phong đạo cốt vận áo xanh, áo đỏ đang ngồi xếp bàn tròn đánh cờ trên một bàn đá phẳng lì. Hai ông lão lặng lẽ đánh cờ, tính toán kỹ từng nước, từng lúc sẽ nghiêng mình để đi một nước cờ, chòm râu dài bạc trắng phất phới lướt qua đám quân cờ son. Hiếu đứng lặng đợi chờ, để ý nhìn thấy một cuốn sách lớn gấp lại bên cạnh ông áo xanh. Một lúc lâu, ông lão áo xanh mắt vẫn không rời khỏi bàn cờ, cất tiếng gọi: - “Rượu đâu”! Hiếu vội vàng rót đầy hai chén rượu bưng đưa ngang tầm tay hai ông lão. Cả hai nhấc chén uống cạn, mải mê theo nước cờ đi. Hiếu dâng rượu ba lần như vậy. Đến khi xong ván cờ, ông lão áo đổ thắng cuộc ngước mắt lên, Hiếu vội vàng sụp xuống lạy mà thưa rằng: - “Muôn lạy tiên ông, xin tiên ông cứu độ cho con khỏi chết, vì con còn mẹ già yếu không ai nuôi dưỡng. Cúi xin tiên ông cứu cho con được sống thêm vài năm nữa, cho các em con khôn lớn lên có thể thay thế con mà nuôi dưỡng mẹ già thì con có chết cũng vui lòng.” Ông lão áo đỏ nghiêng mình nói nhỏ với ông lão áo xanh. Ông này mở cuốn sách ra cầm bút chữa lại một chữ, rồi bảo Hiếu rằng: - “Anh đã khéo léo mời chúng ta uống rượu của anh, anh lại là một đứa con có hiếu, anh còn giúp người lúc hoạn nạn, nên ta vui lòng sửa lại số mạng của anh được sống lâu cho đến trăm tuổi”. Hiếu vẫn quỳ mọp, chưa kịp ngỏ lời cảm tạ, bỗng nghe thấy gió thổi trên đầu, ngước mắt lên, không còn thấy hai ông tiên đâu nữa. Trên đường về, Hiếu vừa đi vừa chạy, trong lòng mừng rỡ vô hạn, song không dám kể chuyện lại cho ai hay, ngay đối với mẹ cũng vậy. Về sau có lần Hiếu trở lại hòn núi, tìm thấy lại hồ nhưng nước không còn xanh nữa, trong rừng không còn nghe tiếng chim hót như rót nhạc. Qua ngọn thác, vẫn thấy tàn cây thông in bóng trên bàn thạch, nhưng Hiếu không còn tìm đâu ra bàn cờ son của hai ông tiên .
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hai-ong-tien" }
Chiếc giày thơm
Ngày xưa, ở chợ Đồng-xuân có cô gái họ Trương, con một gia đình giàu có lớn. Cô gái mặt hoa da phấn và đã đến tuổi yêu đương. Thường ngày sống trong nhung lụa, có kẻ hầu người hạ nên cô ít khi bước chân ra ngoài. Một hôm cô ngồi hóng mát trên lầu tây. Đang dựa bao lơn nhìn xuống đường phố, cô trông thấy có chàng trẻ tuổi cưỡi ngựa đi qua. Bên phía chàng trai nhác thấy bóng hồng thì say vì nhan sắc, đứng lại ngắm mãi không rời. Cô gái họ Trương thấy có người nhìn chòng chọc vào mình liền thẹn thò lui gót. Chàng trẻ tuổi tên là Lý Quốc Hoa còn đang dùi mài kinh sử, là con một vị tướng ở vệ Kim Ngô đóng tại kinh thành. Hôm ấy, sau khi nhìn thấy người đẹp chàng đâm ra thẫn thờ, không còn muốn giục ngựa đi tiếp. Nhưng khi nhìn lại nhà cô gái, thấy tường cao cổng kín, chàng mới biết đó là người không phải dễ dàng gặp gỡ. Mặc dầu vậy, chàng vẫn không quên ngôi nhà lầu, chỗ giai nhân vừa ngồi ngắm cảnh, có bao lơn con tiện và rèm the, bụng bảo dạ: - Thật là một trang phong lưu tuyệt sắc! Thế nào cũng phải tìm cách gần gũi nàng mới thỏa dạ. Từ đó chàng ra công dò la tông tích, hy vọng có ngày được mắt xanh. Một hôm chàng đi qua cửa, gặp mặt người ra dáng con hầu từ nhà ấy đi ra. Chàng sán đến gần, làm quen. Qua trao đổi một vài câu chàng mới biết đó là người nữ tỳ của nhà họ Trương tên là Hồng Hạnh, đi mua phấn cho cô chủ. Chàng khẩn khoản nhờ nàng làm ơn giúp mình trao cho cô chủ một bức hoa tiên. Thấy Hồng Hạnh nhận lời, chàng mừng rỡ cảm ơn. Lần đầu tiên đọc bức thư cầu thân, cô gái họ Trương cảm thấy trong lòng nở hoa. Đoán biết đó là ánh chàng cưỡi ngựa chòng chọc nhìn mình hôm nọ, nàng mỉm cười, nhớ lại khuôn mặt tuấn tú của chàng. Hàng ngày nàng đọc đi đọc lại bức thư không chán. Rồi cuối cùng nàng cũng viết mấy dòng lên hoa tiên trả lời. Hồng Hạnh từ đấy trở thành con thoi thông tin tức cho hai bên, vì vậy không mấy chốc họ đã trở thành cặp bạn tình. Lần đầu cô gái họ Trương hẹn chàng đến vườn hoa nhà mình một đêm trăng. Chàng họ Lý lén lút tìm đến, cảm thấy vừa hồi hộp vừa thích thú. Và chàng sung sướng vô hạn khi được đối diện và người ngọc. Cuộc tình duyên cứ thế nảy nở thuận lợi. Sau bao lần gặp gỡ khác, họ lại hẹn vào mồng ba tháng Ba sẽ gặp nhau trên một chiếc cầu vắng ở phía cửa Đông. Nhưng không may cho cặp bạn tình, đêm ấy quan Kim Ngô giữ anh chàng lại ở dinh để thảo hộ cho ông một tờ trình rất dài mãi đến canh ba rồi canh tư mà vẫn chưa xong. Cô gái họ Trương lần đầu một mình ra khỏi nhà trong đêm tối. Nàng đã giấu cha giấu mẹ, giấu cả bọn con hầu đầy tớ, trừ có một mình Hồng Hạnh. Nhưng Hồng Hạnh phải ở nhà để đề phòng bất trắc. Một mình nàng lủi thủi đến cầu, chờ mãi không thấy tăm hơi người yêu đâu cả. Cầu vắng tanh. Nép sau bụi cây, nàng thấy mỗi lúc một sốt ruột: - Chẳng lẽ chàng lại lừa dối ta. Nhưng trống lầu đã đổ canh hai mà vẫn biệt vô âm tín. -Chàng tệ thật! Đêm hôm khuya khoắt, lại thân gái một mình, nàng đành phải trở về không thể rốn đợi. Nhưng nàng đã hữu ý để lại một chiếc giày của mình ở chỗ hẹn, cũng là một cách báo cho chàng biết rằng mình có tới. Mãi đến gần canh năm, Lý Quốc Hoa mới làm xong công việc khẩn cho bố. Vừa đặt bút xuống, chàng đã ba chân bốn cẳng chạy đến nơi hẹn đầu cầu. Nhưng ôi thôi, người ngọc đâu còn ở đó. Nhờ có chiếc giày của nàng để lại mùi thơm phảng phất, nên chàng không nghi ngờ gì nữa. Chàng đoán là nàng đã đợi mình sốt ruột, đã trách mình hết lời và chắc là từ nay nàng mất lòng tin cậy ở mình. -"Ôi! Bố ta đã báo hại ta, bây giờ thì nàng còn coi ta ra gì nữa". Chàng cảm thấy như có một sự đổ vỡ ghê gớm, không cứu vãn được. Cầm lấy chiếc giày, chàng âu yếm mãi và trong một lúc rầu lòng đến cực điểm, tự nhiên hồn lìa khỏi xác. Và chàng ngã vật xuống bên cầu bất tỉnh nhân sự. Sáng dậy, người nhà quan tướng Kim Ngô không thấy Lý Quốc Hoa, đâm bổ đi tìm nháo nhác. Họ ra đến cầu thì thấy xác công tử với chiếc giày thơm còn ôm ở ngực. Cả nhà họ Lý xúm quanh khóc nức nở. Câu chuyện đưa lên quan. Bấy giờ coi việc kinh thành có quan thiếu sư họ Trần. Nhìn thấy chiếc giày trong tay xác người trẻ tuổi, ông đoán đây hẳn là một vụ án về tình duyên. Bèn sai người đem chiếc giày để đi tìm chủ nhân của nó. Không bao lâu đến nhà họ Trương, họ đã tìm ra cô gái. Nghe tin người yêu nằm chết bên cầu, cô gái họ Trương kinh ngạc và bội phần đau xót. Nàng không đợi viên sai nhân bắt mình ướm giày nữa mà cầm luôn chiếc còn lại, ra thú thực với thiếu sư, và xin quan cho mình được phép đến than khóc trước người bạc mệnh. Đến nơi, giữa đám người đông nghịt, nàng chen đại vào, gục đầu vào thây chàng than khóc rất thảm thiết. Không ngờ "âm dương cảm cách", Lý Quốc Hoa như được truyền hơi thở, tự nhiên bừng tỉnh rồi vùng ngồi dậy y như sau một cơn mê. Nhà họ Lý khôn xiết mừng rỡ, lạy tạ quan thiếu sự họ Trần. Thiếu sư xoa tay vui vẻ nói: - Đôi lứa xứng đôi đấy, còn đợi gì mà không cho họ kết hôn với nhau. Ta vì vụ này vô tình trở thành mụ mối cho hai nhà. Cả hai gia đình vui vẻ nhận lời. Thế là sau một tiệc cưới mà tiếng đồn vang dậy kinh thành, chàng và nàng trở thành vợ chồng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chiec-giay-thom" }
Sự tích 1000 con hạc giấy
Chuyện kể rằng một nàng tiểu thư đài các con gái huyện quan yêu say đắm một chàng thư sinh nghèo. Hai trái tim đến với nhau bằng tình yêu tinh khôi tuổi xuân thì. Chuyện đến tai huyện quan, ông đùng đùng nổi giận và ra sức ngăn cấm. Thì ra huyện quan chê chàng thư sinh quá nghèo và vốn dĩ ông đã có kế hoạch kén rể là con trai một vị thương gia giàu có. Bị cấm đoán, nàng tiểu thư ngày ngày u sầu, ra vào buồn tênh, sắc xuân héo úa. Mối tình giữa nàng tiểu thư và chàng thư sinh càng bị cấm càng trở nên mãnh liệt. Tức tối, huyện quan gọi chàng thư sinh đến và ra một điều kiện, nếu chàng thư sinh đáp ứng sẽ được gả con gái. Điều kiện là trong vòng ba ngày đêm, chàng thư sinh phải xếp đúng 1.000 con hạc giấy làm lễ vật cầu hôn. Thế là trong ba ngày liên tiếp, chàng thư sinh cắm cúi xếp hạc giấy. Đêm trước thời hạn ba ngày, chàng vừa xếp xong con hạc giấy thứ 999 thì bất tỉnh vì kiệt sức. Vài ngày sau, chàng qua đời. Người ta chôn chàng ở một ngọn đồi hoang vắng sau chợ huyện. Một thời gian ngắn sau đó, người ta phát hiện trên mộ chàng thư sinh có con hạc giấy thứ 1.000 rỉ máu. Nàng tiểu thư không được biết câu chuyện này, càng không biết về cái chết của người tình. Nàng đành phải chấp nhận lên kiệu hoa về nhà chồng. Trước ngày vu qui một con trăng, nàng vô tình biết chuyện chàng thư sinh và con hạc giấy thứ 1.000 bên mộ vắng. Đau xót đến tột cùng, nàng lâm bệnh nặng. Trước khi qua đời, nàng cầu mong cha cho phép được chôn bên cạnh mộ chàng thư sinh. Bẵng đi một thời gian nữa, người ta ra thăm mộ hai người thấy từ hai nấm mồ mọc lên hai cây lạ, từ hai thân cây mọc ra hai cành cây hướng về nhau, gắn chặt với nhau không rời dù cho trời có đổ mưa to gió lớn hay tuyết sương giăng phủ. Từ đó trở đi, dân gian truyền tụng nhau sự tích Ngàn cánh hạc giấy và gắn mối tình đẹp đẽ ấy của hai người với câu tục ngữ “Như chim liền cánh, như cây liền cành”. Người đời sau còn sáng tác nhiều bài hát về ngàn cánh hạc giấy để thổ lộ nỗi niềm những kẻ yêu đương bị cách trở.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-1000-con-hac-giay" }
Sự tích cây Đu Đủ
Ngày xưa có một bác nông dân nghèo có thú nuôi chim. Một hôm chim của ông ăn mất 3 hạt bắp của quan làng. Ba năm sau quan làng bắt đền, ông nghĩ thầm: - “Ông quan làng thật giàu có, chỉ mất 3 hạt bắp thôi mà cũng chẳng tha, thật là tiểu nhân và thất đức, 3 hạt bắp chẳng đáng là bao, đền quách cho xong “.. Và người nông dân nghèo đã đến xin đền 3 hạt bắp. Quan làng bắt đầu tính nhân lên, từ 3 hạt bắp gieo xuống đất 3 tháng được 3 cây bắp, mỗi cây sinh 1 trái bắp, 1 trái bắp được 1500 hạt gieo 3 tháng lại được 1500 cây bắp… Và cứ thế ông tính 3 năm… Bác nông dân nghe xong toát mồ hôi, ra về, cơn bệnh bắt đầu hành hạ bác, khiến bác suy nhược toàn thân, ít lâu sau bệnh trở nên trầm trọng, trong cơn hấp hối bác cố lết ra bờ giậu hướng về phía nhà quan làng miệng lẩm bẩm: - “Đâu đủ mà trả, đâu đủ mà trả” - rồi bác chết tại chỗ. Ít ngày sau, chỗ bác nông dân chết mọc lên một cây, người ta đặt cho cây ấy là cây “Đâu đủ.” Sau này người ta đọc khác đi là cây “Đu đủ” như ngày nay.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-du-du" }
Sự tích đòn bánh Tét
Mùa xuân năm kỷ dậu 1789 quân Tàu nhà Thanh đã đem 20 vạn quân sang chiếm nước ta, trong đó gồm cả Bắc Hà và kinh đô Thăng Long. Lúc bấy giờ nước ta ở Bắc Hà có vua Lê Chiêu Thống nhưng không phản kháng, nên quân Thanh đánh chiếm khá dễ dàng và sẽ tiếp tục đánh chiếm Nam Hà. Trước khi đánh vào Nam Hà quân Thanh đã đặt nền móng cai trị sắt thép ở Bắc Hà, vì họ nghĩ rằng người dân Việt ở Bắc Hà không đồng lòng với Vua Lê, họ lo sợ khi họ đem quân đánh vào Nam Hà đối đầu với quân của Vua Quang Trung, ở Bắc Hà dân Việt bất khuất sẽ nổi dậy đánh, họ sẽ bị rơi vào thế “lưỡng đầu thọ địch.” và bị tiêu diệt. Vì vậy khi đặc nền móng cai trị họ đã đàn áp dân Việt ở Bắc Hà dã mang. Đúng thời điểm Tết năm kỷ Dậu, quan tướng Thanh tập trung ăn tết ở kinh đô Thăng Long, dự định ăn tết xong họ sẽ tăng viện thêm quân để đánh vào Nam Hà. Lúc bấy giờ nước ta ở Nam Hà, vua Quang Trung vừa mới lên ngôi, đang đóng đô ở Phú Xuân Huế, sau khi đánh bại chúa Nguyễn. Mặt dù đã bình định được Nam Hà nhưng chưa phải hoàn toàn mạnh vì còn thế lực chúa Nguyễn âm thầm.Tuy nhiên mục tiêu kế tiếp của vua Quang Trung là phải đánh chiếm lại Bắc Hà, đánh đuổi giặc ngoại xâm, diệt chúa Trịnh, hạ bệ vua Lê để thống nhất đất nước. Bấy giờ vua Quang Trung có quân đội khoảng chừng 7 vạn quân, nếu so sánh về lực lượng thì quân Thanh lớn như con voi và quân Việt nhỏ như con chuột, vua Quang Trung lo lắng vì thế nước yếu, nếu quân Thanh tiến vào đánh chắc chắn sẽ bị bại. Trước thế nước lúc ấy Vua có mưu lược chủ động tấn công giặc trước, trong lúc quân Thanh đang ăn tết, đang khinh thường quân ta và có những chủ quan sơ hở thắng lợi cao hơn. Vua đã bàn thảo chiến lược với các tướng mở chiến dịch Bắc tiến và chiến lược tiến đánh thần tốc trong lúc quân Thanh quan tướng đang tập trung ăn tết ở Thăng Long. Điều khó khăn nhất trong kế hoạch thần tốc Bắc tiến là quân lương. Vua Quang Trung đã dùng mưu lược quân lương bằng cách dùng Bánh Chưng biến đổi tạo thành đòn bánh Tét đễ tiện, gọn cho quân đội hành quân mang theo trên mình, đi cả ngày lẩn đêm, bánh tét tiện dụng vừa đi vừa ăn không cần phải nghỉ nấu ăn. Quân đội được chia thành từng tổ, mỗi tổ ba người, dùng một cái cáng, ban đêm một người nằm ngủ trên cáng hai người gánh đi và thay phiên nhau, vừa được ngủ vừa đi vừa được ăn uống, đễ khi đến nơi vẫn có đủ sức chiến đấu, đồng thời tấm cáng cũng được dùng đễ làm tấm chắn chống tên nỏ. Kế hoạch xong, vua Quang Trung kêu gọi tất cả người dân ở Thuận Hoá, Huế, gói bánh Tét theo mẫu được vua thiết kế. Đồng thời vua cho quân di chuyển ra Bắc Hà vược qua khỏi sông Gianh (là ranh giới phân chia nước Việt Nam lúc bấy giờ thành Nam Hà và Bắc Hà, bởi thế lực của hai chúa Trịnh, Nguyễn lâu hơn100 năm) rồi dừng quân ở núi Tam Điệp tỉnh Thanh Hóa, quân đội vừa đi đến Tam Điệp vừa tuyển mộ thêm quân ỏ Nghệ An lên được 10 vạn. Bánh Tét được dân Thuận Hóa gói xong chuyển đến núi Tam Điệp, là điểm bắt đầu xuất phát chiến lược Thần Tốc đánh bất ngờ vào Thăng Long. Ngoài 2 đạo quân Thủy, Bộ, còn có một đạo quân tinh nhuệ gồm những người trẻ khỏe, võ nghệ cao, hành quân bí mật vược rừng núi Chí Linh, Lam Sơn suốt 4 ngày đêm, đễ làm mũi quân đánh vào phía Tây Thăng Long, và mũi quân mai phục đễ ngăn chận thông tin của quân Thanh từ những đồn trú ở Ninh Bình về Thăng Long báo tin, bánh Tét dùng rất tiện, gọn cho đạo quân này. Đạo quân bí mật và Thủy quân được xuất phát sớm hơn đạo quân đường thẳng, xuất phát ngày 26 tháng chạp, đạo quân đường thẳng có chiến tượng, chiến mã tiến quân ngày 28 tháng chạp. Quân Thanh ở Bắc Hà và Thăng Long, trước tết đã biết quân của vua Quang Trung đang tiến ra đánh, theo mưu lực của họ dự tính hành quân bình thường đến 15 tháng giêng quân Việt mới đến được Thăng Long, chiến lược của họ bố trí những đồn quân đánh kìm chân, ngăn cản ở Ninh Bình, mục đích làm cho quân của Quang Trung khi đến được Thăng Long đã bị mệt mỏi, khi ăn tết xong họ sẽ dàn trận đánh, Họ tin tưởng đông quân thế mạnh và chắc chắn sẽ phá tan quân của Quang Trung khi đến Thăng Long, Đồng thời họ có chiến lược dùngThủy quân đánh chiếm sông Gianh, để sau khi quân Quang Trung bị bại trận rút lui vào Nam Hà sẽ bị thủy quân của họ chận đánh ở sông Gianh để tiêu diệt, kế đến họ sẽ tiến quân chiếm Nam Hà dễ dàng không còn lực lượng nào kháng cự nổi. Mưu lược của họ đã sắp xong nên họ rất an tâm ngồi ăn tết đợi quân của Quang Trung đến nộp mạng. Với bản chất bạo tàn của giặc Tàu, xem người Việt là nô lệ, họ tổ chức vui chơi ăn tết với những món ăn họ cho là thuốc bổ mà ở nước họ bị cấm nên hiếm như: thịt đồng nhi, sữa trinh nữ Việt, dâm dục.v.v. Họ ăn chơi trên những khổ đau, khóc than của người dân Việt ở Bắc Hà. Bất ngờ sáng mồng một Tết quân của vua Quang Trung với chiến lược Thần Tốc đã tiến quân đến Thăng Long, chận các lộ thông tin, tiếp ứng của quân Thanh, vây đánh Thăng Long bằng ba mũi: Hà Hồi, Ngọc Hồi, Đống Đa. Quân Thanh quan, tướng đang ăn tết bị đánh bất ngờ, không kịp trở tay, không kịp tiếp ứng nên đã bị bại trận, tan rã đội ngủ, bỏ chạy dẫm đạp lên nhau để tìm đường thoát thân. Họ ngỡ như quân của Quang Trung từ trời bay xuống đánh, mưu lược của họ cũng đã tan tành. Tuy nhiên vua Quang Trung không chủ trương tàn sát quân Thanh nên đã không phong tỏa cửa Ô, cửa phía bắc thành Thăng Long để lối thoát cho quân lính Thanh thoát chạy về Tàu, nhưng khi chạy hổn loạn tranh nhau qua cầu phao Sông Hồng, vì quá đông người nên bị đứt dây lật cầu chết đuối rất nhiều, số còn lại chạy về hướng các tỉnh phía Bắc. Quân Thanh đồn trú ở các tỉnh phía Bắc đang ăn tết bổng nghe tin chủ soái và Thăng Long tan vở, thấy quân bại trận tơi tả chạy họ cũng bỏ đội ngũ đễ thoát thân chạy về Tàu, quân dân Việt ở Bắc Hà quật cường nổi dậy tiếp ứng, vì vậy quân của Quang Trung đánh chiếm các tỉnh phía Bắc khá dễ dàng, nhanh chóng ít bị thiệt hại, dân cư các tỉnh phía nam nước Tàu thấy quân Thanh bại trận chạy về họ cũng khiếp sợ kéo nhau chạy theo, tuy nhiên Quân Quang Trung chỉ chiếm lại và dừng quân ở ải Nam Quan.Tướng Sầm Nghi Đống tự tử chết ở gò Đống Đa, tướng Tôn Sĩ Nghị và những tướng khác chạy thoát được bằng đường biển về Tàu bỏ lại ấn tín. Do đó chỉ trong vòng 7 ngày quân của vua Quang Trung đã chiếm lại Bắc Hà, kinh đô Thăng Long và Thống nhất đất nước từ ải Nam Quan đến mủi Cà Mau. Sáng mồng 3 tết vua Quang Trung vào chiếm Thăng Long, ngày mồng 5 tết sau khi ổn định quân dân vua Quang Trung cho ăn mừng chiến thắng và ăn tết ở Thăng Long. Nói đến triều đình Mãn Thanh lúc bấy giờ, vua Càn Long khi nghe tin bại trận, quân kéo về cũng đau buồn.Tuy nhiên trong lòng vẫn thấy nhẹ nhõm, bởi vì lập trường của vua Càn Long trước đó không có chủ trương đem quân xâm chiếm nước Việt, mà bất đắc dĩ phải đồng ý để Tôn Sĩ Nghị, sầm Nghi Đống đem quân đi, vì trong Triều Thanh bấy giờ có cánh quan Tướng gốc Hán Tộc vẫn âm thầm mưu đồ lật đổ ngôi triều Mãn Thanh, Càn Long hiểu âm mưu dụng ý của họ đem quân chiếm nước Việt xong, củng cố thế lực rồi dùng cả người Việt đem quân trở về lật đổ nhà Thanh để đoạt ngôi của Càn Long, dưới chiêu bài “phản Thanh phục Minh”. Vua Càn Long đã ngăn cản, nhưng cánh quan này vịn vào cớ cầu viện của vị vua bạc nhược Lê Chiêu Thống nước Việt để gây áp lực buột Càn Long phải đồng ý, đồng thời khi chiếm xong Bắc Hà Trước Tết kỷ dậu, Tôn sĩ Nghị đã gởi thư thỉnh cầu tăng viện thêm quân để đánh chiếm Nam Hà sau tết, nhưng Vua Càn Long còn do dự. Khi Tôn sĩ Nghị baị trận chạy về các Tướng khác cánh Hán tộc xin đem quân tái chiến trả thù đã bị Càn Long bác bỏ, và trừng phạt Tôn sĩ Nghị nặng nề. Càn Long nhận thấy vua Quang Trung là người có mưu lược tài ba là đấng anh hùng, trong lòng Càn Long tin tưởng nước Việt có Quang Trung sẽ không còn là mối họa lo bị cánh Hán tộc lợi dụng để gây nguy hại cho triều đình mãn Thanh, nên Càn Long đã nêu lý do khi bác bỏ ;1: Quang Trung đã không chủ trương tàn sát quân để cho quân Thanh chạy về, bị thiệt hại quân Thanh chết chừng 1 vạn quân chỉ vì tai nạn và lãnh đạo tồi của Tôn sĩ Nghị. 2: Đã tôn trọng biên giới hai nước nên đã dừng quân ở ải Nam Quan mặt dù ải Nam Quan phía bên Tàu lúc bấy giờ bỏ ngỏ, vì vậy không cho đem quân tái chiến trả thù. 2 năm sau đó vua Càn Long đã cử sứ giả sang nước Việt giải hòa, xác định tôn trọng biên giới lãnh thổ ải Nam Quan và Tôn phong Vua Quang Trung là An Nam Quốc Vương, đồng thời xin vẽ một bức chân dung của Vua Quang Trung để lưu niệm, bức chân dung ấy trước 1950 vẫn được lưu giữ tại bảo tàng viện Triều Thanh ở Trung Quốc, bên cạnh có hình 2 đòn bánh tét. Tuy Càn Long có thiện chí nhưng cánh Hán tộc vẫn bất phục, vẫn âm mưu hành động bằng chiến tranh mềm dẻo với Việt Nam (chi tiết này được tiết lộ bởi một người Việt đã đến học ở Trung Quốc, biết và nghe về truyền thuyết chung quanh bức chân dung của Vua Quang Trung nước Việt ở viện bảo tàng văn Hóa Triều Thanh.) Trận đại thắng lịch sử này ngoài việc đuổi quân xâm lược, còn thống nhất đất nước từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, đồng thời xóa được nỗi hờn dân tộc chia đôi đất nước phân tranh bởi hai thế lực chúa Trịnh và Nguyễn ở sông Gianh, mà đã thể hiện qua câu hò ví điệu Nam ai của người dân xứ Huế, dân 2 bên bờ Sông Gianh: - Núi Truồi ai đắp mà cao, Sông Gianh ai bới, ai đào mà sâu! Sau trận thắng ấy. Vua Quang Trung nhận định đòn bánh Tét chiếm vai trò quan trọng trong chiến thắng mùa xuân lịch sử năm kỷ dậu.Vua ra lệnh để tưởng niệm hàng năm ngày tết cổ truyền lưu hành món bánh Tét cho toàn dân khắp cả nước.Vì vậy đòn bánhTét được lưu truyền từ trận chiến thắng lịch sử đó cho đến nay. Ngoài ra đoàn quân chiến thắng khi trở về khi lập gia đình đám cưới họ có dùng món bánh tét để đãi tiệc cưới rồi trở thành tập quán, hiện nay ở Huế nhiều nơi còn giữ tập quán này. Bánh tét còn là món qùa có ý nghĩa tặng nhau dịp tết cổ truyền, cũng là món ăn và lễ vật dâng cúng tế khi có lễ hội, Bánh Tét còn là món qùa rất được hài lòng của những chàng rể tặng nhạc gia ngày Tết. Đòn bánh tét được vua Quang Trung thiết kế, rồi trao cho một vị quan ở làng Chuồng, Huế thực hiện làm mẫu và phổ biến nhanh đến người dân Thuận Hóa gói. Đòn bánh tét truyền thống được gói bằng lá chuối sứ, nếp thơm, nhân bằng thịt heo bỏ da có nạc và mỡ, đậu xanh bỏ vỏ, gia vị gồm; muối, tiêu, hành, bánh được buột bằng lạt giang. Gói xong phải nấu 1 ngày để bánh chín đủ mềm có thể để dùng10 ngày không hư. Hình ống tròn, dài 1 thước mộc (khoảng chừng một gang tay rưỡi.)1 đòn nặng 2 cân. Dùng cho quân đội lúc bấy giờ 1 người ăn 2 ngày 1 đòn, mỗi người được phát 2 đòn khi khởi hành ở núi Tam điệp. Bánh tét được tái thiết chế từ bánh dày, bánh chưng nên giống nhau về phẩm chất, khác nhau về hình thể, nên tiện gọn cho quân lương. Khi dùng mở lạt và lột lá chuối một đầu của đòn bánh, dùng lạt giang bền dẻo quấn vòng quanh đòn bánh phần đã lột lá chuối để cắt bánh thành từng lát vừa ăn, phần còn lại bọc lại lá chuối và buộc lại để cho lần khác sạch sẽ. Động tác lột bánh, cắt bánh này, người Huế gọi là Tét Bánh, tên của đòn bánh này lấy từ động từ tét bánh này để đặt tên gọi là: Bánh Tét. Bánh Tét là một tổng thể văn hóa cổ truyền dân tộc từ bánh dày bánh chưng, trở thành quân lương và đóng vai trò quan trọng trong trận chiến thắng mùa xuân lịch sử năm kỷ dậu của vua Quang Trung để bảo vệ Tổ Quốc. Cho nên đòn bánh tét cổ truyền không chỉ là món ăn thuần tuý ngày tết, mà còn chứa đựng chính khí rạng ngời từ văn hóa dựng nước và trí dũng giữ nước trong dòng Hùng sử của dân tộc Việt Nam. Đây là một gia sản văn hóa chính khí của dân tộc Việt Nam đáng được lưu truyền...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-don-banh-tet" }
Sự tích hoa Dã Quỳ
Ngày xửa ngày xưa, nơi buôn sóc nọ có chàng K’lang của núi rừng yêu tha thiết nàng H’limh của con suối.Ngày ngày chàng K’lang vào rừng săn bắt thú rừng còn nàng khéo léo dệt tấm chăn kiệu chồng (vì theo tục lệ của bộ tộc nàng con gái trước khi lấy chồng phải dệt một tấm chăn thật đẹp để mang về nhà chồng). Rồi tối tối họ lại quây quần đốt lửa và múa hát cùng dân làng trong buôn. Cuộc sống vui vẻ hạnh phúc của họ cứ trôi đi. Đến một ngày kia khi H’limh chờ hoài đến tối mà vẫn không thấy K’lang đi săn về, nàng lo lắng từ buôn sóc nàng đi tìm K’lang, nàng cứ đi, đi mãi đi hết mười mấy con suối, mười mấy ngọn núi rồi mà không thấy người yêu của mình đâu cả. Mệt quá nàng ngủ thiếp đi trong giấc mơ nàng thấy K’lang gọi nàng và bảo nàng hãy đi thêm một con suối nữa sẽ gặp chàng ở đó. Nàng giật mình rồi đi tiếp đến cuối nguồn nàng nhìn thấy K’lang đang bị những tên hung ác của bộ tộc Lasiêng trói chặt. Nàng chạy lại ôm lấy chàng mặc cho những mũi tên, những ngọn giáo đâm vào da thịt. Mặc cho bao nhiêu đau đớn nàng vẫn quyết bảo vệ cho người yêu cho tới khi nàng bị trúng mũi tên độc cuối cùng của chàng La rihn con trai tộc trưởng Lasiêng. Vì quá hờn ghen với tình yêu của H’limh dành cho k’lang chàng đã buông lơi mũi tên hận tình. Chàng cũng không ngờ người lãnh trọn mũi tên ngiệt ngã ấy lại là H’limh – người con gái mà chàng ngày đêm thương thầm trộm nhớ mà không được đáp lại tình cảm. Từ đó cứ mỗi độ tháng mười nơi nàng H’limh chết lại nở ra một loài hoa có màu vàng rực. Người ta thường gọi là hoa Dã Quỳ. Cây hoa Dã quỳ rất dễ mọc và mọc rất nhanh những cánh hoa màu vàng tràn đấy sức sống mãnh liệt như tình yêu chung thủy.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-da-quy" }
Sự tích cây Dừa
Ngày xưa ở vùng đất nọ có gia đình nhà nghèo cảnh mẹ góa, con côi. Hai mẹ con ngày ngày cày thuê cuốc mướn cho tên địa chủ giàu có trong vùng, mà cảnh đói cơm thiếu áo vẫn xảy ra ngày một ngày hai. Đứa con gái ngày một lớn càng xinh đẹp nết na, bà mẹ ngược lại ngày một già nua, đau bệnh triền miên. Năm ấy, trời hạn nặng, cây cối héo úa, lúa ngoài đồng cháy khô. Gia cảnh mẹ con nhà ấy càng thảm não. Không còn gạo nấu cháo nuôi mẹ, cô gái bạo dạn đến gõ cửa nhà giàu . Vốn háo sắc, gả địa chủ rắp tâm chiếm đoạt cô. Hắn ra điều kiện: – Được rồi, ta có lòng thương người lắm, nay ta cho em mượn thúng gạo này về mà ăn. Trong ba tháng, nếu em không trả được gạo cho ta thì đến đây hầu hạ ta vậy. Cô gái đội gạo về vừa khấp khởi bởi mẹ đã có cái ăn, vừa trĩu lòng vì món nợ đã vay, biết lấy đâu mà trả. Húp chén cháo xong, mẹ cô nghẹn ngào: – Mẹ không qua khỏi, con ráng mà giữ mình, làm thuê mướn cũng phải trả nợ cho người ta. Nghèo cho sạch, rách cho thơm con ạ! Mấy hôm sau bà mẹ mất, cô gái khóc lóc thảm thiết. Hàng xóm kẻ ít người nhiều gom góp cho bà cụ được yên mồ yên mả. Ngày đêm, cô gái vật vả thảm thiết bên mộ mẹ hiền. Không lâu sau, tên nhà giàu cho tay chân đến buộc cô gái về làm hầu hạ hắn. Cô gái gom hết những gì mình có đưa cho họ và hẹn xin được để tang mẹ xong sẽ qua trả lễ. Mòn mõi, đau buồn, cô gái chưa thực hiện được lời hứa cũng đã nhắm mắt xuôi tay. Mấy năm trôi qua, người ta phát hiện có một loài cây lá xòe mượt xanh như mái tóc của cô bé nhà nghèo nọ. Bẹ đỡ lá hình dáng như chiếc mũi xinh xắn của cô. Đặc biệt cây cho trái trên cao, nước trong vắt ngọt lịm, như tấm lòng thơm thảo trọng nghĩa nhân và giữ tiết sạch giá trong khi cô bé còn sống. Người ta đặt tên cho nó là cây dừa . Cây dừa mọc trong vườn nhà, luôn khắng khít bao đời với người nông dân từ đó.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-dua" }
Sự tích bãi ông Nam
Ngày ấy, những người dân chài vùng biển Nam trong khi ra khơi làm ăn thường bị nạn bão tố. Mỗi lần bão tố thình lình xảy ra, nếu trên đất liền chỉ đổ cửa đổ nhà thì trên mặt biển khơi có thể chết hàng trăm hàng ngàn mạng người. Không những thế, nó còn chôn vùi xuống đáy biển biết bao nhiêu là chài lưới thuyền mảng, những của cải mồ hôi nước mắt tích góp không phải chỉ một ngày. Vì vậy, những dân chài vùng biển Nam luôn luôn kêu gào oán trời trách đất độc ác phũ phàng, làm cho con mất cha, vợ lìa chồng, táng gia bại sản. Cuối cùng lời kêu gào của họ cũng động đến tòa sen. Một hôm, đức Bồ tát ngự trên tòa sen nghe tiếng than khóc, bèn cúi nhìn xuống toàn cõi biển Nam. Nhận thấy muôn ngàn sinh linh bỏ mạng đều là những con người nghèo khổ, lương thiện, chất phác, thì động lòng thương, bèn cởi ngay chiếc pháp y mình đang mặc, xé thành từng mảnh ném xuống mặt biển rồi niệm chú cho mỗi mảnh hóa thành một con vật để chúng làm công việc cứu giúp dân chài. Vừa xuất hiện ở Nam hải, những con vật ấy bèn bơi lội khắp nơi, cố gắng làm những việc được giao, nhưng tiếc thay, thân tuy dài nhưng không lớn mấy, không thể chống chọi với những cơn bão tố, chẳng đủ sức che chở cho ghe thuyền, nên cuối cùng kết quả không có bao lăm. Bởi vậy, một hôm chúng họp lại trình lên tòa sen để Bồ tát biết sự bất lực của chúng. Thấy vậy Bồ tát bèn lại mượn mấy bộ xương voi ném xuống biển, biến vật nhỏ bé trước thành những con vật vừa dài vừa có vóc dáng khổng lồ. Bồ tát dặn: - Ta đã làm cho thân thể các ngươi đủ sức đương đầu với bão tố. Từ nay ta giao cho các ngươi chuyên giữ phận sự cứu nguy trên vùng Nam hải. Các người hãy cố gắng làm tròn bổn phận. Để giúp đỡ các ngươi, ta sẽ cho một số quân đi theo hầu hạ, đồng thời nhắc nhở các ngươi không được lơ là với công việc. Nghe lời truyền phán, những con vật mới vui lòng chia nhau bơi đi các nơi làm chức trách của mình. Bọn quân hầu cũng chia nhau đi theo hết lòng giúp rập. Nhưng rồi Bồ tát vẫn chưa vừa ý. Nhận thấy mấy con vật mới sáng tạo vì quá to xác nên không được hoạt bát nhanh nhẹn, Bồ tát lại ban cho chúng phép thần thông để có thể sớm phát hiện ra tiếng kêu cứu xa hàng nghìn dặm. Đối với bọn quân hầu của chúng, Bồ tát cũng cho một tên dùng mực để chỉ đường vạch lối cho chủ chúng đi được nhanh, một tên thì cầm một ngọn đao luôn luôn hộ vệ tả hữu. Như vậy là Bồ tát đã tạo nên cá voi, cá mực và cá đao. Nhờ thế, dân chài vùng biển Nam cũng được an ủi đôi phần, từ đó họ gọi cá voi bằng cái tên ông Nam hay cá Ông. * * * Bấy giờ ở một cửa biển Nam có một vàm sông quen gọi là vàm Ông-đốc, cá một cá ông làm trấn thủ tại đây. Cá ông làm việc tận tụy, ít khi xa rời vùng mình cai quản. Nhưng một hôm nó có ý muốn được ngao du một chuyến ra khỏi cõi bờ đi ngắm xem cho thỏa thích. Bèn tỏ ý ấy với những kẻ tùy tòng. Cá mực và cá đao đều trả lời: - Hiện nay chưa phải là mùa dông bão, ngài có đi xa cũng chẳng sao. Chỉ mong ngài phải nhớ trở về sớm, đừng có la cà mà hồi không kịp. Hơn nữa cũng cần phải bảo vệ tấm thân vì ngài đang kỳ thai nghén. Được lời, cá Ông bèn quyết chí xuất hành cùng với cá mực và cá đao. Chương trình đã định là sẽ vòng theo mũi biển, cứ như bây giờ gọi là mũi Cà-mau, lần lượt tiến dần về phía Đông bắc đi thăm các vàm khác, ở đó sẽ gặp một số bạn bè và người thân thuộc, cuối cùng lại vòng theo mũi biển trở về chỗ cũ. Nhằm một buổi tối trời, cả đoàn kéo nhau ra đi. Vừa qua khỏi mũi đất, họ tiến vào vàm sông Bồ-đề. Đối với cá Ông, cuộc ngao du trở nên ngày một thú vị khi được gặp lại những người quen thuộc và được thấy những cảnh đẹp ở vùng biển Đông. Cho nên cả đoàn lưu lại nhiều ngày ở vàm sông Bồ-đề để xem cho thỏa thích trước khi rời lên phía Bắc. Nhưng một đêm nọ, bỗng nhiên khi lạnh làm rởn da mọi người: báo hiệu một con sóng gió hãi hùng sắp nổ ra. Không ngờ bão tố lại xuất hiện bất thường như vậy, cả đoàn hết sức hoảng hốt. - "Trời nổi bão rồi. Chúng ta phải mau mau trở về đi thôi, vì thế nào cũng có người bị nạn". Tiếng chủ tướng kêu lên. Và nó ra lệnh cho cả đoàn tập hợp đông đủ để chuẩn bị trở về. Nhưng khi quay về, vì có phép thần nên cá Ông đã biết tin có một chiếc ghe đang vô tình vượt ra khơi thuộc vàm sông Ông-đốc. Cá Ông than thở: - "Ôi! vẫn còn có một chiếc ghe vật vờ ngoài vàm. Bây giờ mà trở về vùng ấy nhanh nhất cũng phải mất một ngày. Biết làm sao bây giờ?". Thấy cá đao thỉnh thoảng lại thúc bên hông, cá Ông hết sức lo lắng. Bây giờ về đường biển thì e không kịp vì phải đi quanh. Chỉ có cách là chúng ta chịu liều đi tắt và vàm sông Bồ-đề, tuy có nguy hiểm nhưng may ra có thể cứu kịp. Bèn nói sao làm vậy. Cả đoàn lại tiến phát. Nhưng khi lọt vào vàm thì bão đã nổi lên mỗi lúc một mạnh. Hơn nữa, sông Bồ-đề thì nước cạn mà thân của Ông Nam lại quá vĩ đại. Tuy vậy, theo dấu cá mực, nó vẫn cố trườn, có lúc phải trườn trên bãi đầy cây tràm và cây đước xây xát cả mình mẩy. Hồi này nó đang mang thai. Vì phải cố gắng dùng hết sức lực nên cái thai bị sảy. Cá bé ra đời đáng lý có thể sống được, nhưng vì nước cạn nên chẳng mấy chốc thì tắt thở. Tuy lòng đau như cắt và mệt hết sức, Ông Nam vẫn không bịn rịn, vẫn cố xuyên qua dòng nước để về cho kịp vàm sông Ông-đốc, nơi mình có trách nhiệm với dân chài. Chẳng mấy chốc cả đoàn về được đến nơi. Bão khi ấy đang tung hoành dữ dội hết mức. Cá Ông vùng ngay ra khơi, chỉ một nhoáng nó đã đội chiếc ghe sắp bị chìm lên lưng đưa vào bờ. Dọc đường nó còn cứu được năm chiếc khác đang vật vờ trong sóng hiển. Vì đuối sức nên chuyến ấy Ông Nam bị đau đến mấy tuần. Biết được mọi việc xảy ra, Bồ tát cũng vui lòng xá cho đoàn đệ tử tội tự ý rong chơi mà không bẩm báo. Từ đó, dân chài vàm sông Bồ-đề lập miếu thờ đứa con vô tội của cá Ông đẻ rơi trong khi làm phận sự. Hiện nay cái miếu ấy vẫn còn, người ta quen gọi là miếu Ông Nam. Cả cái dòng nước mà Ông vượt qua ngày nay đã bồi thành bãi, người ta cũng gọi là bãi Ông Nam.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-bai-ong-nam" }
Sự tích hạt thóc
Ngày xưa, có một người đàn bà nghèo. Chồng chết sớm, bà ở vậy nuôi đứa con trai duy nhất. Điều đáng buồn là cậu con trai càng được cưng chiều, càng đâm ra hư hỏng, bất hiếu, và không nghe lời mẹ. Bởi vì nhà nghèo, không đủ miếng ăn, người đàn bà cực nhọc trồng bắp, nuôi gà. Có trái bắp nào lớn đủ, bà luộc rồi đưa cả cho con ăn, phần mình ăn chỗ còn thừa lại. Khi nào làm con gà nào, bà để cho con ăn no nê, xong rồi bà kín đáo bòn mót đống xương vụn. Nhưng cậu con trai không thấy điều đó, cậu không thương yêu mẹ, lại còn hỗn xược, ham chơi nữa . Một ngày kia, người đàn bà lâm bịnh nặng. Biết mình sắp chết, bà lo lắng, kêu đứa con trai lại, khuyên nhủ rằng : – Ngày mẹ chết, con sẽ thấy ở chỗ mẹ nằm có một loại hạt nhỏ Con hãy bỏ vào trong chậu đất, đổ nước vào, rồi quảy về hoàng cung sẽ đổi được rất nhiều vàng bạc. Ngày mẹ chết, cậu con trai tìm được trên gối nằm một loại hạt nhỏ bằng đầu ngón tay . Lòng tham lam, cậu liền làm theo lời mẹ dặn, bỏ hạt vào một chiếc chậu nhỏ, tưới nước vào, rồi bỏ lên lưng gánh về phía hoàng cung. Đường về hoàng cung rất xa, phải mất cả sáu, bảy tháng đi đường. Cậu con trai mệt mỏi, tiền hết, lương thực cạn dần. Cậu bắt đầu phải xin từng bữa ăn, và khó khăn lắm mới xin được chỗ trú ngủ qua đêm. Cậu dần dần nhận ra được công lao của mẹ đã cực nhọc nuôi nấng mình trong bấy lâu . Cậu hối hận vì đã đối xử tệ bạc với mẹ. Về tới hoàng cung, lúc cậu bỏ cái chậu trên lưng xuống, ngạc nhiên vì thấy tự lúc nào, trên lưng cậu có một nhánh cỏ trĩu những hạt nhỏ, mầu vàng xinh xắn, mùi thơm thoang thoảng, nấu ra ăn thật bùi . Cậu con trai nhớ thương mẹ, bèn thôi không đem hạt vào cung vua nữa, trái lại cậu mang giống hạt ấy về trồng, rồi phân phát cho mọi người cùng trồng nữa … Đó là hạt lúa , chính là hạt gạo mà mỗi ngày chúng ta ăn đó.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hat-thoc" }
Kéo cày giả nợ
Xưa, có một người tên gọi là Chu văn Địch làm ăn vất vả, cửa nhà đói kém, nhưng tính khí hiền lành, ăn ở thật thà, có nhân có đức. Trong hạt, có một nhà giàu thường cho người ấy vay nợ, năm nào cũng vậy, vay vay giả giả đã nhiều. Phải một năm mất mùa, người ấy không giả được nợ, mà ông nhà giàu cũng không hỏi đến.  Mấy năm sau nguời ấy chết đi, nợ vẫn còn lại.  Nên lúc hấp hối còn giối lại với con rằng: Nợ nần chưa giả được ai, Hồn này thác xuống tuyền đài chưa yên. Một đêm, ông nhà giàu kia nằm mơ, nghe có tiếng người đến nói bên tai rằng: Tái sinh chưa dứt hương thề, Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. Sáng ngày dậy, thấy con trâu đẻ ra được con nghé trên lưng có hai chữ “Văn Địch”. Con nghé mỗi ngày một nhớn, khôn ngoan, dễ bảo, cầy bừa rất khỏe.  Người ngoài biết chuyện, ai cũng bảo rằng: Người ăn thì còn, Con ăn thì hết, Đã đến lúc chết, Hãy còn nhớ ơn . Cách đấy ít năm, hai đứa con Văn Địch khôn nhớn lên, làm ăn nhờ giời cũng khá. Một hôm đang cày ngoài đồng, nghe thấy thửa ruộng gần đấy có người bảo con trâu rằng: -Văn Địch! Văn Địch! Nhanh chân, mau bước, kẻo đã trưa rồi. Hai đứa con nghe thấy tên bố, ngạc nhiên chạy sang bên ruộng hỏi, thì người kia nói rằng: -Con trâu này từ lúc sinh ra, trên lưng có hai chữ Văn Địch, mà có gọi đúng tên nó như thế, thì nó mới chịu làm. Lúc về, hai đứa con vội sang nhà ông nhà giàu hỏi truyện, tỏ ý muốn mua con trâu, thì ông ấy bảo rằng: -Trước, tên Chu văn Địch có vay nợ ta, không giả được ta, ta cũng không đòi.  Có nhẽ bởi vậy, mà phải hoá kiếp làm con trâu này để giả nghĩa cho ta.  Đã mấy năm nay nó làm ăn chịu khó, trong nhà ta đây cũng được thịnh vượng.  Nợ giả như thế, ta cho cũng là rồi.  Vậy nếu hai anh có phải là con, muốn mua chuộc về, thì ta để lại cho.  Ta lại giả văn khế cũ đem về mà hóa kiếp cho yên hồn cha. Khi hai đứa con chuộc được con trâu về, vừa đem bức văn khế ra hóa, thì trâu lăn ra chết.  Thế là nó đã giả sạch được nợ kiếp trước rồi. Sau hai đứa con làm ăn mỗi ngày một nảy nở và trở nên giàu sang, ai cũng có bụng yêu bụng quí. Thấy truyện này, người ta mới đặt câu “Kéo cày giả nợ” thành câu tục ngữ. Người ta lại còn phụ thêm một câu hát rằng: Ở cho có nghĩa, có nhân, Cây đức lắm chồi, người đức lắm con, Ba vuông sánh với bảy tròn, Đời cha nhân đức, đời con sang giàu.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/keo-cay-gia-no" }
Sự tích loài ngỗng
Những chú ngỗng con nở ra đều có bộ lông màu trắng tinh. Vì chúng đều xuất thân từ những quả trứng rất trắng của mẹ. Mỗi lần nghịch bơi lặn ở ao nước bẩn thỉu, có bị lấm bẩn thì mẹ chúng chỉ cần dội qua nước sạch thì bộ lông của chúng lại trắng tinh như mới. Chính vì thế mà bọn ngỗng con luôn tự hào và hay khoe khoang là chúng có bộ lông trắng đẹp nhất. Đến tuổi phải đi học, bọn ngỗng con rất hào hứng. Chúng được mẹ sắm sửa cho sách bút, thước kẻ rất đầy đủ. Nhưng bọn chúng rất hay nói chuyện riêng, ăn vặt trong lớp, không chú ý nghe thầy giáo giảng bài. Đã thế, chúng lại hay chê bai các loài khác như lũ gà, ngan, vịt con. Một hôm, thầy giáo thiên nga đem đến lớp một cái lọ rất đẹp. Đó là một lọ mực quý. Thầy tuyên bố: - Trong lớp, em nào làm bài kiểm tra đạt điểm cao nhất sẽ được thầy thưởng cho lọ mực này. Các em cố gắng lên nhé! - Chúng em sẽ cố gắng ạ! Bọn vịt gà ngan ngỗng đồng thanh đáp. Chúng lập tức vùi đầu vào học. Ai cũng quyết tâm dành điểm cao nhất để được nhận phần thưởng của thầy. Bọn ngỗng con quả là rất sáng dạ. Khi chúng đã tập trung học tập thì thì quả nhiên kết qủa cao nhất lớp. Tuy nhiên do tính kiêu căng, tự phụ không chịu chia xẻ, nhường nhịn nhau nên nhận phần thưởng của thầy giáo về bọn chúng tranh cướp nhau chí choé. Chẳng may do tranh nhau bọn ngỗng con hất tung lọ mực lên cao. Mực đổ tung toé làm bẩn bộ lông trắng tinh của chúng. Nhiều con bị mực nhuộm làm đen kịt cả bộ lông. Có con thì dính mực loang lổ. Những con đứng xa thì may mắn vẫn còn giữ được bộ lông trắng. Lũ ngỗng con kêu khóc ầm ĩ chạy về gọi mẹ. Mẹ ngỗng lấy nước sạch tắm cho lũ ngỗng con. Nhưng mọi cố gắng của mẹ cũng chỉ làm cho bộ lông của chúng bớt đen đi đôi chút. Chính vì thế mà đến tận bây giờ trong đàn ngỗng có con lông rất trắng, có con màu xám tro như ngày nay. Vì thế bọn ngỗng rất bực tức. Ra đường gặp trẻ con là chúng hay gây gổ, đuổi theo doạ cắn. Chính là chúng sợ bọn trẻ con chúng ta cười chê loài ngỗng đấy!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-loai-ngong" }
Sự tích con ếch
Ngay từ sáng sớm đã có tiếng loa rao vang khắp cánh đồng: “Thi tài… thi tài… chọn người tài giỏi đi dự đại hội thể thao đầm sen đây!”. Bọn ếch, nhái, chẫu chuộc lao xao gọi nhau đi thi. Lão cóc được đề cử làm trưởng ban giám khảo. Lão này có tiếng là công minh, chính trực. Việc gì sai trái là lão lập tức phê phán ngay. Ngày xưa lão còn dám lên tận thiên đình kêu kiện, đấu lý. Ông trời cũng phải chịu thua lão. Lão cóc đứng chống nẹ tuyên bố: - Chúng ta sẽ thi môn nhảy cao! Cả bọn ồn ào khi lão cóc công bố thể lệ cuộc thi. Lũ châu chấu, niềng niễng, cào cào bị loại ngay không được dự thi vì chúng vừa nhảy, vừa bay, rất khó xác định được thật giả. Bọn cá buồn thiu không thể tham gia vì cuộc thi tiến hành ở trên cạn mà cá muốn nhảy được thì phải nhờ có nước. Đám rùa, cua, ốc, cà cuống thì chịu hẳn vì cả đời chúng có biết nhảy là gì đâu. Chỉ có đám ếch nhái là phấn khởi. Ếch tin mình chắc chắn là vô địch vì xưa nay nó vẫn nổi tiếng là nhảy cao, nhảy xa nhất cánh đồng. Cuộc thi bắt đầu. Lão cóc trịnh trọng phất cờ lệnh. Đúng như dự đoán, cả ba lần nhảy, đại diện của lũ ếch đều nhảy cao và xa nhất, chẫu chuộc xếp thứ nhì và nhái bén đứng thứ ba. Đám ếch huênh hoang reo hò ầm ĩ khắp cánh đồng: - Số một… số… một… một… một… loài... ếch… là… số… một… Lão cóc bảo: - Ếch vô địch! Nhưng hôm nay mới chỉ là vòng sơ khảo. Sau ba tháng nữa sẽ là vòng trung kết, quyết định thắng thua... Lũ chẫu chuộc, nhái bén lặng lẽ ra về. Trong khi đó thì dám ếch tưng bừng gọi nhau tổ chức ăn mừng chiến thắng râm ran khắp cả cánh đồng. Một trận mưa rào đổ xuống làm cho cuộc liên hoan của bọn ếch càng thêm ồn ào, hào hứng. Chúng hỉ hả chúc tụng nhau, mời nhau ăn uống no say, lúc nào cũng bàn luận về chiến thắng, về vinh quang chói lọi của loài ếch, chê bai thoả thích các loài khác. Tiệc tùng, ăn uống triền miên nên lũ ếch ngày càng béo ục ịch, chậm chạp hẳn đi. Trong khi đó thì ở ngoài rìa cánh đồng bọn chẫu chuộc và nhái bén lặng lẽ tổ chức luyện tập. Ngày này qua ngày khác chúng kiên trì tập nhảy. Những chú chẫu chuộc, nhái bén mồ hôi đầm đìa vì tập luyện vất vả. Có con còn bị ngã vỡ đầu, chảy máu. Nhưng bọn chúng vẫn không nản lòng, nhụt chí. Cuối mùa thu, vòng thi chung kết nhảy cao bắt đầu. Bọn ếch xung phong vào nhảy trước. Nhưng sao thế này. Những chú ếch béo ục uỵch nhảy chồm chồm mãi không qua khỏi ngọn cỏ. Có chú còn ngã lăn ra đất mãi mới gượng dậy nổi khiến khán giả cười nghiêng ngả đến vỡ bụng. Thì ra do quá tự tin, mải say sưa ăn mừng thắng lợi bước đầu, không chịu thường xuyên luyện tập nên ếch không nhảy cao như trước được nữa. Trong khi đó những chú chẫu chuộc, nhái bén đều nhảy rất cao, rất gọn. Có chú chẫu chuộc chỉ cần nhún chân một cái đã vọt lên tận ngọn cây ngô đang trổ cờ. Lão cóc kiểm tra cẩn thận từng mức xà rồi mới công bố kết quả: - Giải nhất, đứng số một là chẫu chuộc, giải nhì, xếp thứ hai là nhái bén, không có giải ba, giải khuyến khích là ếch. Chẫu chuộc và nhái được cử đi dự đại hội thể thao đầm sen mùa hè sang năm. Khán giả ồ lên ngạc nhiên khâm phục chẫu chuộc và nhái bén. Cũng có nhiều tiếng chê bai đám ếch chưa chi đã vội tự phụ với thành tích của mình, lên mặt coi thường người khác, không chịu thường xuyên tu dưỡng, luyện tập nên đã thất bại. Bọn ếch lủi thủi kéo nhau ra về. Chúng chui ngay vào trong hang đắp mà phủ kín cửa nằm giấu mặt cho đỡ ngượng. Kể từ đó mỗi khi có mưa rào, nhớ lại giây phút huy hoàng năm xưa, bọn ếch lại gọi nhau, tiếc nuối nhắc lại chiến thắng vinh quang của mình: “Số… một… một… một…”. Lâu dần chúng kêu chệch đi thành “ộp… ộp… ộp…” như ngày nay.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-ech" }
Sự tích cái mõ
Ngày xưa, có một vị Hòa Thượng trụ trì một cảnh chùa ở gần bờ sông trong một thôn quê. Mỗi khi có việc ra tỉnh, Ngài quá giang bằng chiếc đò ngang. Hôm ấy nhằm ngày 13 tháng bảy, Ngài quá giang ra tỉnh để chủ lễ một đàn kỳ siêu. Khi đò ra tới giữa dòng sông cái thì thấy sóng nổi lên ầm ầm làm cho thuyền tròng trành muốn đắm. Ai nấy ở trên đò cũng đều hoảng hốt kinh khủng thì ngay lúc ấy, bỗng nhiên thấy nổi lên trên mặt nước một con cá Kình rất lớn, dương hai mắt đỏ ngầu mà nhìn chăm chăm vào vị Hòa thượng kia. Nhưng Hòa thượng vẫn bình tĩnh ngồi niệm Phật. Trong khi đó, con cá liền cất cao cái đầu lên khỏi mặt nước mà lắp bắp cái miệng nói: - Hỡi hành khách ở trên đò! Các người muốn được yên lành, hãy liệng lão ác tăng xuống đây cho ta để nuốt chửng nó đi cho hả cơn giận. Các người có biết không? – Ngày trước, ta theo lão tu đạo, lão không chịu giảng dạy chi cả, cứ buông lỏng cho ta muốn làm gì thì làm, không hề kiềm chế. Vì vậy, ta mới sinh ra lười biếng, chỉ lo rong chơi ăn ngủ theo thế tục, không thiết gì tới công phu bái sám, ăn chay niệm Phật và săn sóc công việc Chùa. Không những thế, mỗi khi có đám tiệc lại để cho ta mang hậu đắp y để khoe khoang với đại chúng và bổn đạo. Vì những tệ đoan như thế nên sau khi ta chết, phải đọa vào loài súc sanh làm thân cá Kình, đi tới đâu thì ồ ạt tới đó, làm cho những tôm cá chạy tét đi hết, không có cái gì để ăn, phải chịu đói khát, rất nên cực khổ, thiệt khổ còn hơn loài quỉ đói nữa. Vì thế mà ta chỉ oán lão thôi, còn các người đối với ta vô can, ta không muốn làm hại ai cả. Nghe cá nói xong, Sư Cụ liền mỉm cười mà đáp rằng: “Này nghiệt súc! Nhà ngươi nói thế mới thật là thậm ngu. Há ngươi không hiểu câu phương ngôn: Ðạp gai, lấy gai mà lễ, hay sao? Nếu ngươi đã biết vì tạo những tội lỗi như thế mà phải đọa làm thân cá thì nhà ngươi cần phải ăn năn sám hối tội lỗi và tạo duyên lành, ngõ hầu mới được tội diệt phước sanh, rồi mới mong thoát khỏi được quả báo. Ta là Thầy ngươi, mỗi khi dạy ngươi đúng theo giới luật thì ngươi bảo là quá nghiêm khắc, hay la rầy quở phạt, còn thả lỏng cho ngươi không nghiêm trị thì ngươi quen tánh mông lung, thành thử mới phải đọa làm loài cá. Một khi bị đọa, ngươi cần phải sám hối và báo cho ta biết để tụng kinh siêu độ và xả tội cho, còn nếu như muốn ăn thịt ta thì lấy ai để cứu ngươi nữa. Ðã có tội, không biết ăn năn mà còn kiếm cách đỗ lỗi cho người. Phạm Phật thì có Tăng cứu, còn như phạm Tăng thì Phật không độ. Ngươi có hiểu câu đó chăng? Loài súc sanh kia!!! Sư cụ quở vừa dứt lời thì cá Kình kia cũng lặn chìm xuống dưới đáy nước. Kế đó, sau bảy ngày đêm vang tiếng tụng kinh cầu siêu độ tại chùa thì cá Kình liền trồi lên mặt nước, lết thẳng tới sân Chùa, nằm dài một đống và hướng vào trong Chùa mà nói rằng: - Bạch Thầy, mấy hôm nay, nhờ công đức của Thầy và chư Tăng Ni chú nguyện và tụng kinh siêu độ nên con đã được tiêu nghiệp, thoát kiếp cá Kình và sanh lên cõi trời Dục Giới. Trước khi lên cõi Trời để hưởng sự khoái lạc của chư Thiên, con xin đến đây thành tâm đảnh lễ tạ ơn Thầy cùng chư Tăng Ni và con nguyện lưu cái xác thân cá Kình tại Chùa để mỗi ngày, chư Tăng Ni cầm cây gõ lên đầu con, ngõ hầu làm gương cho những vị nào tu hành còn biếng nhác, ưa khoe khoang, tự tôn, tự đại, không chịu khép mình vào vòng giới luật và cũng là để nhắc nhở cho những vị ấy nhớ tới bổn phận tu tâm, hành đạo, để khỏi xao lãng công phu bái sám, niệm Phật tu thiền, thúc liễm thâm tâm, nghiêm trì giới luật. Vì sự tích như đã kể ở trên mà từ ngày ấy tới nay, cái mõ mới trổ theo hình con cá để làm kỷ niệm mà thức tỉnh người tu hành. “Em nhớ hôm nào sông nước vắng Chuông Chùa lay động ánh sương chiều Lời Kinh, tiếng “Mõ” như thầm nhắn Cái kiếp phù sinh buổi xế chiều “
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cai-mo" }
Sự tích cây Nhãn
Ngày xưa… xưa.. rất xưa, có một tên ăn cướp, cướp được rất nhiều của, cất được rất nhiều nhà, mà vẫn chưa thỏa lòng tham. Hắn không chỉ muốn giàu, hắn còn muốn làm vua. Quạ Tinh có lần mách với hắn: “Muốn làm vua không khó, chỉ cần có một con mắt Rồng gắn vào mắt mình là được…”. Thế là hắn ta liền bảo Quạ Tinh: – Vậy thì Quạ Tinh hãy đi tìm cho ta con mắt của Rồng! Ta lên làm vua, Quạ Tinh muốn gì, ta cho nấy… Quạ Tinh vâng dạ nhưng chưa biết là sẽ tìm được mắt Rồng ở đâu. Ở vùng đầu nguồn một con sông lớn kia, có một em bé nhà nghèo nọ, ngày ngày thường ra sông lấy nước về cho mẹ. Một hôm em bỗng nhặt được một quả trứng to: đó là một quả trứng Rồng. Rồng mẹ lần ấy để lạc mất một quả trứng mà không hay. Trứng bị nước lôi đi. Trứng ra gặp suối. Trứng xuống gặp sông. Trứng lọt vào đôi mắt của em bé. Hai bàn tay của em bé ôm trứng, mang chạy vội về nhà. Mấy ngày sau, trứng nở. Một con Rồng con chui ra. Em bé hoảng sợ. Rồng con liền nói với em: – Tôi không phải là rắn đâu, tôi là Rồng con. anh cho tôi sống với anh. Tôi sẽ giúp ích cho mọi người. Em bé hỏi Rồng con: – Mẹ Rồng đâu rồi? Rồng không đi tìm mẹ ư? – Họ hàng Rồng có lệ hễ lạc đâu thì cứ tự lo sống ở đấy, anh cho tôi được chung mẹ với anh nhé! – Được! – Mẹ em bé biết chuyện cũng đồng ý nhận Rồng làm con. Bà dặn: – Hai anh em phải thương nhau thì mẹ mới vui lòng! Ngày ngày em bé và Rồng con ra tắm ở sông. Ngày ngày Rồng con lại tập phun nước. Rồng con bảo: – Em tập phun nước để sau này, những ngày khô hạn, em bay đi lấy nước về phun giúp mẹ và bà con trồng lúa, trồng ngô. Em bé gật đầu. Tối đến. Rồng con bay lên lưng chừng núi cao, tìm một đám mây để ngủ. Sáng sớm Rồng con lại bay về với mẹ và anh. Một hôm em bé và Rồng con đang tắm thì Quạ Tinh bay qua. Thấy Rồng con, Quạ Tinh đỗ lại trên một cành cây thật kín để nhìn. Quạ Tinh mừng lắm. – Đúng là rồng chứ không phải là rắn! Chỉ có rồng mới phun được nước như thế kia! Nó mừng quá, bay về mách với chủ. Tên ăn cướp cũng mừng lắm. Nó bảo với Quạ Tinh: – Vậy thì mày hãy đi móc trộm mắt của Rồng con về cho ta. Ta lên làm vua, mày muốn gì, ta cho nấy. Quạ Tinh bối rối một lúc rồi nói: – Nhưng sức Rồng con còn bay nhanh, bay xa gấp mấy sức tôi. Vuốt nó lại sắc gấp mấy vuốt tôi. Chú phải cùng đi với tôi thì may ra mới trộm được mắt của nó. – Nó bị móc mất mắt thì còn thấy gì mà bay đuổi theo mày được. – Tôi chỉ móc mỗi lần được một mắt. Mà chủ cũng chỉ cần một con mắt rồng là đủ lên làm vua rồi… – Thế ta phải làm gì? – Rồng con ngủ trên một đám mây ở lưng chừng núi. Tôi móc được mắt thì thả ngay xuống cho chủ. Rồng con có bay theo đuổi, tôi sẽ bảo là không biết. Rồng con sẽ thôi không đuổi tôi nữa. Tên ăn cướp lo lắng: – Nhưng nó sẽ bay tìm ta… – Chủ cứ đón cho được mắt rồng, rồi chui vào một đám cây mây mà ngồi. Mây nhiều gai, Rồng con sẽ sợ, không dám chui vào đấy đâu. Tên ăn cướp vẫn chưa hết lo: – Chẳng lẽ, ta lại cứ phải ngồi mãi ở trong đấy hay sao? – Mất một mắt rồi, chỉ ngày sau, con mắt còn lại của Rồng con cũng sẽ hỏng nốt. Rồng con sẽ bị mù. Lúc ấy chủ cứ đàng hoàng ra về. Nhưng chủ nhớ là phải bọc mắt rồng trong rêu ướt thì sau này mới gắn vào mắt chủ được đấy! – Ta nhớ rồi! Tên ăn cướp và Quạ Tinh ra đi. Khuya đó, Rồng con đang ngủ ngon trên một đám mây trắng ở lưng chừng núi thì bỗng thấy đau nhói ở một bên mắt. Quạ Tinh đã dùng mấy móng chân sắc nhọn của nó, móc được con mắt bên phải của Rồng con rồi. Nó thả ngay con mắt sáng rực của Rồng con xuống cho chủ nó. Chủ nó liền đưa cái vợt lớn đan bằng tơ mỏng, đón lấy rất nhẹ nhàng như đón một ngôi sao rơi. Rồi lão ta cẩn thận bọc con mắt quý vào ngay trong một nắm rêu ướt và chui vào một bụi gai mây rậm rịt, ngồi im ở đấy. Ở trên này, Rồng con đang bay đuổi theo Quạ Tinh. Quạ Tinh vừa chạy trốn vừa hét to: – Sao anh lại đuổi đánh tôi? Chính tôi thấy một con chim cắt to lớn nó vừa móc mắt của anh và bay vào trốn ở trong cái hang đá bên dưới kia kìa. Rồng con nhìn vào chân, vào mỏ của Quạ Tinh, thấy không có gì ngỡ là Quạ Tinh nói thật. Rồng con quay lại. Chỗ con mắt bị móc mất, máu đỏ chảy ròng ròng. Tên ăn cướp ngồi im lặng trong bụi gai mây, thấy bóng Rồng con quay lại, sợ quá run lên cầm cập. Rồng con bay vào cái hang đá rộng. Cái hang trống không! Trời vừa sáng rõ, Rồng con đau quá bay đi gặp em bé ở bờ sông. Thấy Rồng con mất một mắt, máu chảy ròng ròng, em bé thương quá, ôm lấy Rồng con mà khóc: – Sao thân em lại đến nỗi này? – Em đang ngủ thì có một con chim đến móc trộm mắt em. – Phải tìm cho được nó! Em bé chạy ngay về nhà xách cung tên, dắt thêm con dao nhỏ và cùng Rồng con ngược lên chỗ núi cao. Đến chỗ bụi mây gai, em bé chợt nhìn thấy tên ăn cướp đang ngồi thu lu trong ấy. – Ông làm gì lại ngồi ở đây? Ông có thấy con chim cắt nào to lớn thường bay qua đây không? – Có! Có! Nó vừa bay về ngả này! Tên ăn cướp vừa nói, vừa chỉ tay lên phía trên. Hắn sơ hở để con mắt rồng ở trên tay lóe sáng lên một tí. Em bé định đi, bỗng dừng lại: – Ông cầm cái gì ở trong tay mà sáng lên như con đom đóm ấy? – À! à! Đúng là mấy con đom đóm! – Nhưng mùa này làm gì có đom đóm? Em bé liền cất tiếng gọi Rồng con lúc này vẫn đang bay ở bên trên. – Rồng ơi! Mắt của em đây rồi! Tên ăn cướp biết là bị lộ liền xách lưỡi rìu con lao ra. Gai mây níu hắn lại. Phải luống cuống một lúc hắn mới chui ra được. Hắn huơ cái rìu chém vào đầu em bé. Em bé nhanh mắt tránh khỏi và luồn qua tay hắn đâm một nhát vào nách hắn. Hắn rú lên. Suýt nữa thì hắn đánh rơi con mắt của Rồng con mà hắn vẫn giữ khư khư trong bàn tay kia. – Rồng ơi! Hãy giúp anh giết chết tên này! Tên ăn cướp hoảng hốt tháo chạy. Rồng con bay đuổi theo. Em bé đợi cho tên cướp chạy được vài bước thì giương cung lên, bắn một phát đúng vào sau ót nó. Nó lại rú lên và ngã sấp xuống. Con mắt Rồng văng ra, sáng rực lên như ngôi sao hôm, rồi mờ lịm đi liền sau đó. Em bé chạy lại, nhặt lên. Thôi hỏng mất mắt của Rồng con rồi! Con mắt của Rồng con đã lấm lem những đất và sạn. Em bé vội chạy ra suối rửa ngay, nhưng mắt Rồng con đã hỏng thật rồi. Rồng con cũng vừa bay đáp xuống suối, nằm bên cạnh em bé. Nhìn con mắt đã đục trắng, Rồng con buồn lắm nhưng Rồng con không muốn để anh mình phải khổ vì mình. Rồng con nói: – Không lo! Em có bị mù thì đã có tiếng anh dẫn đường cho em bay. Với lại em thuộc hết mọi lối, mọi nẻo ở vùng này rồi! Em bé thở dài nói: – Mẹ mà biết em hỏng mắt, mẹ sẽ buồn khổ lắm đấy! – Anh đừng cho mẹ biết làm gì! – Một vài ngày còn được, giấu mãi thì giấu làm sao! Nhưng này… – Anh bảo sao… – Em ngủ trên mây, sao tên ăn cướp kia lại có thể móc trộm mắt của em được? – Ừ nhỉ! Thôi đúng là con Quạ Tinh kia rồi! Rồng con nói chưa dứt lời, một cái bóng đen bỗng từ trên cao lao xuống rồi vút bay lên. Con mắt Rồng bị hỏng đang để trên tảng đá biến mất trong chớp mắt. Như một luồng gió, Rồng con vụt đuổi theo. Lần này thì Quạ Tinh không còn cách gì để chối cãi và lẩn trốn được nữa. Rồng con lôi cổ Quạ Tinh về đặt trước mặt em bé và nói: – Chính con quái này đã móc trộm mắt em cho chủ nó! Em bé nhìn con Quạ Tinh, rút ngay con dao sắc như nước và giơ lên. Bỗng em hạ xuống: – Này con Quạ Tinh kia! Sao mắt Rồng con đã hỏng, mày lại còn cố cướp mang đi định để làm gì? Quạ Tinh run lẩy bẩy, đầu cúi lạy lia lịa và nói: – Anh tha chết cho tôi, tôi sẽ nói… – Mày nói đi! Quạ Tinh nhanh nhảu: – Tôi nghe bà Tiên ở núi Ngũ Sắc bảo rằng: Mắt Rồng mới hỏng đem lăn đất, chôn sâu đúng một gang tay, mười ngày tưới sữa, mười ngày tưới mật, thì sẽ mọc thành cây. Cây sẽ kết quả. Trong hàng vạn quả, sẽ có hai quả có thể đem gắn lại cho anh rồng nào bị mù. Mắt rồng sẽ sáng lại như cũ. Em bé liền hỏi thêm: – Chủ mày chết rồi, mày định mang con mắt rồng này về cho ai? – Cho con chủ tôi! Vì con chủ tôi lên làm vua thì cũng như chủ tôi làm vua. Tôi muốn gì sẽ được nấy! – Ta tạm tha chết cho mày, nhưng mày hãy vào mà sống trong cái lồng bằng gai này. Rồi gắng mà đợi đến ngày con của chủ mày lên làm vua! Sau đó em vội vàng chạy về nhà nhờ mẹ đem con mắt bị hỏng của Rồng con lăn khe khẽ lên trên một lớp đất màu nâu thật mịn. Bà mẹ thương Rồng con lắm, cố lăn thật nhẹ nhàng. Biết mắt Rồng hỏng rồi mà mẹ cứ sợ mắt Rồng đau. Lăn xong, chính tay mẹ lại cẩn thận đem chôn sâu đúng một gang tay. Mười ngày liền, mẹ đi xin sữa của các bà mẹ trong vùng về tưới, mỗi buổi sáng mười giọt. Mười ngày sau, mẹ lại xin mật về tưới tiếp, mỗi buổi sáng cũng đúng đủ mười giọt. Một mầm cây liền đó bỗng mọc lên. Trong lúc đó thì Rồng con đã hỏng mất con mắt bên kia và ngày ngày đã phải tập bay mò. Bay gần gần rồi bay xa hơn. Em bé từ dưới đất, chỉ đường cho Rồng con tập bay. Những ngày đầu, có lúc Rồng con bay nhầm, đâm cả vào cây, vào đá. Mãi rồi mới quen dần. Nhưng Rồng con vẫn thèm được nhìn thấy ánh nắng và trời đất, cây cỏ và dòng sông, nhất là thấy mặt mẹ mình, anh mình… Rồng con thèm vậy mà chẳng dám nói ra. Chỉ biết là càng ngày càng thấy thèm hơn. Cái mầm cây mọc từ mắt Rồng lớn lên vùn vụt. Đúng mười hai tháng, cây ra quả. Quả lớn lên, nhìn rất giống con mắt của Rồng con khi đã lăn trên lớp đất mịn màu nâu. Quả sai đến hàng nghìn, hàng vạn. Một đêm cuối tháng Sáu, rất tối trời, em bé ra nhìn và thấy trong hàng nghìn, hàng vạn quả đó, có hai quả sáng bừng lên. Em hái xuống, bóc hết vỏ ngoài. Một đôi mắt Rồng trẻ tươi, sáng rực hiện ra. Em liền gọi Rồng con đến và gắn cho Rồng con. Rồng con liền có lại đôi mắt sáng và đẹp như ngày trước. Rồng con mừng quá nhìn em bé khóc ròng. Những giọt nước mắt của Rồng con thật là trong, trong như những giọt sương ở lưng chừng núi. Năm đó, cả vùng bị khô cạn, Rồng con vừa kịp có lại đôi mắt sáng để nhanh nhẹn bay đi lấy nước về phun giúp bà con trong vùng trồng lúa, trồng ngô. Cả vùng đều vui mừng khôn xiết. Ngoài hai quả quý đã hái rồi, những quả cây còn lại, lấy xuống, ăn rất thơm và ngọt. Và sau lần vỏ màu đất, cái cùi trong, bóc lấy cái hạt đen, cũng nhìn rất giống như mắt của Rồng. Quả ấy là quả Nhãn ngày nay. Nhãn là tên gọi tắt còn gọi đủ là Long Nhãn. Long Nhãn nghĩa là mắt rồng! Và cũng vì trước kia, vào mùa hè, rồng hay phun nước giúp người nên khi nào thấy có nhiều Nhãn, các cụ thường hay bảo là năm ấy sẽ có nhiều mưa và có thể con nước sẽ lên to…
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-nhan" }
Vì sao hươu bị mất đuôi
Ngày xửa, ngày xưa có hai ông bà lão sống với nhau trong căn nhà tranh nhỏ cu kỹ ở ven một rừng già, rộng lớn. Hàng ngày, họ cùng nhau dạo chơi trong vườn, buổi tối ngồi bên bếp lửa chuyện trò. Họ sống cuộc sống thanh bình, yên ả. Mỗi khi nói chuyện phiếm với nhau, bà lão thường nói: - Chúng ta có căn nhà, chúng ta có khu vườn, chúng ta thấy hạnh phúc. Nhưng chúng ta có một nỗi sợ hãi. Chúng ta không sợ tiếng sấm, không sợ chớp, thậm chí không sợ ma quỉ. Nhưng chúng ta sợ Leo biết bao. Leo là mối lo sợ nhất của chúng ta. Bà lão vừa nói, vừa lắc lư thân người. Còn ông lão thì không bao giờ biết Leo mà bà lão nói đến là cái gì. Bên ngoài, bóng đêm bao phủ toàn bộ ngôi nhà. Muông thú đang đi kiếm ăn trong rừng. Hai vợ chồng già không hề biết rằng trong khi họ đang nói chuyện có một con cọp đang ẩn nấp bên ngoài nhà của họ, cũng như không biết có một tên trộm cũng đang ẩn nấp gần đó. Cọp lắng nghe những gì hai vợ chồng già nói với nhau. Khi nghe bà lão nói đến nỗi sợ lớn nhất là con Leo khủng khiếp thì nó rất ngạc nhiên. Nó vốn xưa nay là chúa sơn lâm, chẳng biết sợ hãi là gì. Nhưng nó chẳng hề biết con Leo như thế nào mà bà cụ lại sợ đến thế, chắc là nó kinh khủng lắm. Cọp bắt đầu thấy sợ. Lúc bấy giờ tên trộm đang rình mò trong bóng tồi chờ thời cơ để ăn cắp con bò của ông lão. Hắn tiến lại gần nhà hơn. Bất thình lình tên trôm thấy có con gì đang bò trong bóng tối ( đó là lúc con cọp tiến lại gần ngôi nhà để nghe vợ chồng ông lão nói chuyện rõ hơn). Tên trộm tưởng là con bò của ông lão thế nên tiến lại gần, đưa tay ra bắt nó. Thay vì một con bò, tên trộm lại chạm tay phải con cọp. Quá sợ hãi, tên trộm cố leo thật nhanh lên mái nhà trong màn đêm để trốn cọp. Tất cả những chuyện như vậy xảy ra khi cọp đang lắng nghe và tự hỏi: nếu bây giờ gặp con leo nó sẽ làm gì. Rồi bỗng thình lình nó nhìn thấy một hình dáng lạ đang leo mái nhà và nó nghĩ: "Chắc là con leo mà ông bà lão rất sợ. Ta phải chuồn ngay thôi". Nó vội bỏ đi để tránh con leo. Cọp vừa đi vừa khiếp sợ, ra tới bìa rừng nó gặp một con Hươu. Cọp nói với con Hươu về Leo và rằng nó đã nhìn thấy Leo trèo lên mái nhà như thế nào. Con Hươu lấy làm ngạc nhiên và run sợ khi nghe nói đến con Leo. Trong cơn hoảng hốt, nó nói: - Trời ơi, ai có thể giúp tôi thoát khỏi con Leo khủng khiếp bây giờ? Khi đó cọp tỏ ra rất khôn ngoan và dũng cảm: - Hãy đến với ta, chú hươu nhỏ bé, ta sẽ bảo vệ chú. Hãy cột đuôi của chú vào đuôi ta, chúng ta sẽ yên tâm hơn khi gặp con leo. Thế rồi chúng buộc đuôi vào nhau, yên tâm quay lại nấp sau căn nhà. Ngay khi đó một nhành cây bị gãy rơi rầm xuống. Tên trộm đang nấp trên mái nhà sợ quá đến nỗi gần như hắn nhảy từ trên mái nhà xuống, rơi gần con Hươu. Con Hươu sợ hãi cố chạy thoát thân, gắng hết sức kéo cái đuôi của nó trong khi Cọp cũng ra sức kéo theo hướng ngược lại. Phịch - Đuôi của Hươu bất ngờ bị đứt ra. Tên trộm chạy một mạch trở về nhà, Hươu cố chạy vào rừng, Cọp cũng chạy vào rừng theo những hướng khác nhau. Cái đuôi bị đứt của Hươu bị cuốn và đuôi Cọp và theo Cọp biến mất vào khu rừng tối. Hai ông bà lão vẫn ngồi nói chuyện với nhau về con leo mà không hề biết chuyện gì đã xảy ra ở bên ngoài. Và cho đến tận bây giờ, chẳng ai biết con leo khủng khiếp đấy là con gì.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vi-sao-huou-bi-mat-duoi" }
Bà Chúa Ngọc
Ngày xưa, ở xã Đại An gần cù lao Huân tỉnh Khánh Hòa có một đôi vợ chồng già không có con cáị Ông bà ở trong một căn nhà lá dựng bên vách núi, làm nghề trồng dưạ Năm ấy, đến độ dưa chín, sáng nào ra ruộng thăm, ông bà cũng thấy dưa bị hái trộm. Lạ một điều, chỉ có một quả dưa lớn nhất đẹp nhất là bị hái, nhưng kẻ trộm không ăn mà cũng chẳng mang đi Quả dưa còn nằm ở một chỗ trống, nhưng bưng lên đã thấy bị nẫu. Thấy sự lạ, hai ông bà bèn bàn nhau cất công để ý rình. Rồi một đêm trăng sáng, họ đến nấp vào một bụi cây cạnh ruộng. Gần đến nửa đêm, bỗng đâu có cô gái trạc độ mười ba mười bốn tuổi tự nhiên hiện ra ở giữa ruộng dưạ Cô gái rón rén đi, nhìn ngắm từng quả dưa một, rồi sau đó, hình như đã chọn được quả ưng ý nhất thì cúi xuống hái lên. Cô ngắm đi ngắm lại mãi, rồi tìm ra một chỗ trống, tung quả dưa từ tay bên này sang tay bên kia, và cứ như thế, một lúc lâu, sau lại ôm lấy quả dưa mà ngắm nghía mãi không biết chán… Đúng lúc ấy, từ chỗ nấp, hai ông bà chạy ùa cả ra, nắm ngay lấy tay cô gáị Còn cô gái, tuy không chạy trốn kịp nhưng cũng chẳng tỏ ra có chút gì sợ hãị Cô trả cho họ quả dưa, và khi được hỏi thì cô lễ phép trả lời: Cô là con nhà nghèo không còn cả cha lẫn mẹ, nhà cô ở cách đây rất xa và cô cũng chẳng nhớ được quê mình ở đâu nữa… Thấy cô gái dễ thương, lại nghĩ mình không có con cái , nên ông bà bàn nhau nhận cô về làm con nuôi, rồi cả hai cùng nói với cô gái… Còn cô gái, thấy cử chỉ, lời lẽ của hai ông bà đều chân thành thì cô im lặng lắng nghe và suy nghĩ, rồi sau đó nhận lời. Cô theo họ về nhà. Sáng hôm sau, hai ông bà sửa lễ gia tiên, rồi hai bên chính thức nhận nhau là bố mẹ và con cáị Từ đấy trong ngôi nhà của họ, không khí vui vẻ đầm ấm hẳn lên. Hai ông bà hết lòng yêu thương chăm sóc cô, còn cô thì cũng rất mực yêu thương kính trọng bố mẹ. Một hôm trời đổ cơn mưa lớn, nước lũ ở thượng nguồn tràn về mênh mang, khiến mọi người đều ở trong nhà không ai đi làm được cả. Bố mẹ cô, lẽ dĩ nhiên là rất lo lắng, mong sao cho nước mau cạn để cây cối khỏi bị chết úng, thì cô, do tính tình còn trẻ dại, lại thích nô đùạ Rồi cô xuống bên mé nước cậy đá lên, xếp chúng thành một hòn núi giả, lại đi tìm những cành lá gẫy cắm vào xung quanh, để chơi… Thấy vậy, ông bà bực quá, nghĩ rằng con cái chẳng hiểu được lòng bố mẹ, bèn lên tiếng trách cứ rồi la mắng. Nào ngờ, cô gái thấy tủi thân quá, bèn lủi ra đầu hồi nhà, đứng khóc một mình. Một lúc lâu sau, nhân lúc bố mẹ không ai để ý, cô lại lén ra khỏi nhà, rồi men theo những dải đất cao, đi ra phía bờ biển. Cũng lúc ấy, dập dềnh bên mé nước có một cây gỗ kỳ nam, không biết trôi từ đâu đến. Cô gái còn khóc hồi nữa, rồi nhìn quanh nhìn quẩn, thấy mình hoàn toàn lẻ loi, cô đơn, cô bèn nhảy luôn lên cây gỗ, và một điều kỳ lạ xảy ra: Cô gái đã nhập thân vào cây gỗ. Cây gỗ dập dềnh ở đấy một lúc nữa, như có điều gì còn ghi nhớ và lưu luyến, rồi sau đó, theo sóng biển, trôi mãi lên phương Bắc… Ông bà bố mẹ nuôi cô gái đang bận việc chẻ củi và may vá trong nhà, tưởng con khóc rồi chơi ở ngoài đầu hồi, nên cũng không để ý. Đến mãi sau, khi lên tiếng gọi thì chẳng thấy con đâu! Hai ông bà bèn nháo nhào đi tìm nhưng khắp chốn cùng nơi, cũng vẫn tuyệt âm vô tín. Nước lụt mênh mang như thế, lại đang cuộn chảy mãi ra biển, họ cho là con gái xảy chân đã trôi ra biển mất rồị Thế là ông bà gào thét, khóc than thảm thiết, sau đó làm lễ cúng chay cho con, và từ đấy trở đi, sống âm thầm, rầu rĩ cho đến cuối đời… Còn cây gỗ kỳ nam, sau một hồi dập dềnh rồi trôi lên phương Bắc, và cứ thế trôi mãi… trôi mãi… Đến khi sóng lặng gió yên thì đã trôi được cả ngàn dặm đường và dạt vào bờ… Một buổi sáng dân địa phương nọ ra bờ biển, vô cùng ngạc nhiên thấy có cây gỗ lạ rất đẹp trôi từ đâu đến. Họ bảo nhau mang thừng chão ra buộc vào rồi cùng kéo lên bờ, nhưng hàng trăm người xúm vào mà cây vẫn không nhúc nhích. Họ bèn đóng cọc ghim lại để tìm kế sách khác, và cũng từ đấy, dường như ngay tức khắc, tiếng đồn về cây gỗ kỳ lạ đã lan ra khắp cả vùng. Hoàng tử ở phương Bắc bấy giờ vào tuổi kén vợ, đang đi chu du khắp chốn cùng nơi để tìm cho ra một người ưng ý. Khi đến vùng này, nghe chuyện cây gỗ kỳ lạ, chàng cũng tò mò tìm đến. Thấy cây gỗ đẹp thì có đẹp nhưng cũng không lớn lắm mà sao cả trăm người kéo không được thì chàng lấy làm lạ lắm. Cũng vẫn là tò mò, chàng xắn tay áo lên, bảo mọi người cho mình kéo thử một cái xem sao. Chiều ý Hoàng tử, mọi người lui cả rạ Nhưng thật vô cùng bất ngờ, khi hoàng tử vừa cầm thừng co tay lại thì cây gỗ cũng lập tức chuyển động, rồi dần dần, theo sức kéo mà tiến vào bờ. Đến khi chạm đất, Hoàng tử kéo mạnh một cái nữa thì cây hoàn toàn đã nằm trên bãi biển. Mọi người vô cùng phấn khởi, vỗ tay reo hò không ngớt. Xong xuôi, sau khi hỏi ý kiến dân làng, Hoàng tử cho quân lính đem cây gỗ về Kinh đô. Về phía dân làng, tuy cũng có người còn tiếc rẻ, nhưng đa phần cho rằng, đưa cây gỗ về kinh là hợp lý hơn cả vì như vậy tất cả bàn dân thiên hạ sẽ đều được chiêm ngưỡng. Còn về phía Hoàng tử thì cũng chẳng có vui mừng nào hơn, chàng cho là có duyên cớ, bèn không tiếp tục đi tìm vợ nữa, mà cùng quân lính trở về kinh, cùng với cây gỗ. Khỏi phải nói, khi về đến Kinh đô thì mọi người, mọi nơi nghe tiếng, nao nức tìm đến xem đông như thế nàọ Nhưng rồi sự kiện ấy cũng mau chóng qua đi bởi lẽ mọi người nhìn mãi rồi cũng chán, vì cây đẹp thì có đẹp nhưng chẳng thấy có biểu hiện gì là lạ lùng cả. Mà dân chúng cần là cần sự lạ lùng, xưa nay chưa từng có, chứ không phải là một cái cây đẹp. Chỉ riêng có Hoàng tử, do chính tay mình đã chứng kiến và thực hiện được một điều kỳ diệu, nên còn giữ mãi trong lòng sự vui mừng và niềm mong đợị Khi mọi người đã xem chán xem chê, đến mức không còn ai thiết xem nữa, thì Hoàng tử mới sai quân lính đem cây về trước Đông cung để hàng ngày được nhìn ngắm và gần gũi với cây. Cây quả là đã có tình ý với Hoàng tử thật. Từ đó trở đi, mỗi đêm trăng sáng, Hoàng tử bỗng thấy trong thân gỗ bước ra một người con gái xinh đẹp tuyệt trần, và cùng lúc, là mùi hương thơm ngào ngạt tỏa ra theo mỗi bước chân của nàng. Mê mẩn trước người đẹp, Hoàng tử vội vàng chạy tới, nhưng lần nào cũng vậy, hễ cứ giáp mặt, là người con gái lại biến ngay vào trong thân gỗ. Sau vài lần như thế, Hoàng tử đã nghĩ ra được một cách, cũng khá đơn giản chứ chẳng có gì ghê gớm lắm. Chàng cho mấy người lính hầu đứng nấp ở xung quanh, còn tự mình cũng nấp saÜn ở gần đấỵ Khi cô gái vừa xuất hiện thì Hoàng tử đã bước ra nắm chặt lấy tay nàng, và mấy người lính cũng lập tức khiêng cây gỗ đem dấu biến đị Hoàng tử bảo cô gái hãy vui lòng vì chàng mà ở lạị Cô gái e lệ cúi đầụ Thế rồi, ngay lúc đó chàng dẫn nàng đến trình với đức vua cha và hoàng hậu, kể lại hết đầu đuôi ngọn ngành, và xin cha mẹ hãy tác thành cho họ. Nhà vua lắng nghe, rồi nói: “Được. Để xem”, xong cho gọi thị nữ đưa nàng về phòng riêng, còn Hoàng tử thì trở về Đông cung. Sáng hôm sau thiết triều, nhà vua cho triệu quan Thái bốc lại để bói xem điều lành điều gở thế nàọ Sau khi nghe tấu trình là quẻ đại phúc, nhà vua cả mừng rồi ngay sau đó, cho cử đại lễ để hoàng tử sánh duyên cùng cô gái. Từ đó, cuộc sum vầy của đôi trai gái diễn ra thật vô cùng êm ả, hạnh phúc. Ba năm sau, họ sinh được một gái và một trai. Tưởng rằng cuộc tình duyên ấy sẽ mặn nồng mãi mãi đến lúc đầu bạc răng long. Nào ngờ Hoàng tử cũng là kẻ bạc tình, chỉ chung thủy được có mấy năm đầụ Khi vợ đã có con thì chàng ta đâm ra hay chơi bời chứ chẳng quan tâm được như trước. Nay rượu, mai cờ bạc, rồi đi dong duổi khắp nơi, không chú ý gì đến việc dạy dỗ con cáị Nàng đã nhiều lần khuyên can nhưng chàng vẫn chứng nào tật ấy, làm nàng rất chán nản. Vì vậy, ở trong hoàng cung, sống giữa nhung lụa, kẻ hầu người hạ không thiếu, mà nàng cảm thấy bơ vơ, rồi buồn tủi xót xa, chỉ muốn tìm cách bỏ đi, không chút luyến tiếc. Bởi vì con người ta vốn là vậy, nên dẫu là thần thánh, thì khi tình yêu đã hết, tất cả sẽ chỉ là vô nghĩạ Thế rồi một hôm, nhân khi Hoàng tử bỏ đi chơi lâu ngày, nàng tìm thấy cây kỳ nam mà khi trước bọn lính đã đem dấu biệt. Nàng gọi hai con đến rồi đọc một câu thần chú, thế là cả ba mẹ con cùng nhập vào cây kỳ nam. Cây kỳ nam tự chuyển động rời khỏi hoàng cung rồi lăn xuống sông. Từ sông, kỳ nam dòng nước trôi ra biển. Biển lúc ấy bỗng nhiên nổi luồng gió tráị Và theo chiều gió, cây kỳ nam trôi mãi, trôi mãi… Cuối cùng trở lại biển phương Nam. Đến đúng trước cù lao Huân thì gió lặng và cây kỳ nam dừng lạị Cây trôi vào sát mép nước. Từ thân cây, cả ba mẹ con bỗng chốc hiện ra, bước lên bờ, rồi trở về nhà cũ. Cả hai ông bà cha mẹ nuôi lúc ấy đều đã mất. Nhà vắng vẻ tiêu điềụ Ba mẹ con bắt tay ngay vào việc dọn dẹp sửa sang cửa nhà, lập bàn thờ cha mẹ, ông bà tổ tiên, rồi cùng làm ăn sinh sống với dân làng. Từ đấy trở đi, quê hương, vùng cù lao Huân mỗi ngày một thêm ấm no, trù phú. Thế rồi đến một hôm, giữa lúc trời quang mây tạnh, trước sự chứng kiến và ngạc nhiên của mọi người, cả ba mẹ con cùng bay vút lên trời… Ở phương Bắc, Hoàng tử đi chơi về thấy vợ con mất tích. Tìm cây kỳ nam ngày trước thì cũng chẳng thấy đâụ Chàng hối hận vô cùng, lòng tự nhủ lòng sẽ tìm ra bằng được ba mẹ con, dẫu có phải đi xuống tận địa ngục. Khi xưa, lúc ở bờ biển chàng có nghe dân chúng nói cây gỗ này trôi từ biển phương Nam lạị Thế là Hoàng tử vào từ biệt vua cha và hoàng hậu, rồi cùng một số gia nhân, binh lính và thủy thủ xuống thuyền, dong buồm vượt biển hướng về phương Nam. Khi thuyền vừa đúng đến cửa Đại An thì bỗng đâu một trận cuồng phong dữ dội nổi lên. Thuyền đắm, cả Hoàng tử cùng gia nhân thủy thủ đều chìm sâu xuống đáy nước. Nhưng khi cơn bão tan thì tự nhiên biển ở chỗ ấy cũng nổi lên một mô đá nhỏ, vượt cao khỏi mặt nước. Trên mặt mô đá có những hình thù ngoằn ngoèo tựa như những hàng chữ nổị Từ bao đời nay, đã có nhiều người hay chữ và kiến thức uyên bác đi thuyền tới đó, nhưng chưa ai đọc được đấy là những chữ gì. Và có lẽ như thế nên có thể cho rằng, những điều bí mật của thiên cơ, chắc còn lâu người ở dưới trần gian mới có thể hiểu thấu được hết. Ba mẹ con nàng tiên đã về trời, nhưng từ đó đến nay vẫn thường hiển linh ở các nơi gần xa quanh vùng cửa Đại An, vùng cù lao Huân, cù lao Yến. Vì vậy dân đi biển, đi đánh cá, đi tìm tổ yến vẫn thường bày lễ vật, thắp hương rồi hướng mặt lên trời cao cầu xin sự che chở, phù hộ độ trì của nàng tiên, mà từ đó trở đi được kính cẩn tôn xưng là bà chúa Ngọc. Bà chúa Ngọc còn được gọi là bà chúa tiên hay Thánh mẫu Thiên Ya na, theo cách gọi của người Chăm pa, một dân tộc đã định cư lâu dài ở vùng đất nàỵ Từ Huế đến Nha Trang ở đâu cũng có điện thờ bà chúa Ngọc. Triều Nguyễn có sắc thượng phong cho bà là “Hồng Nhân phổ tế linh ứng Thượng đẳng thần”. Tại Nha Trang có tháp lớn cao sáu trượng để thờ bà chúa Ngọc. Lại có cả những tháp nhỏ xung quanh để thờ Hoàng tử, hai người con và hai ông bà bố mẹ nuôị Bia đặt trong tháp lớn do chính tay quan đại thần Phan Thanh Giản thời Tự Đức soạn. Trước kia, hàng năm triều Nguyễn đều ủy thác cho bộ Lễ về đây làm lễ quốc tế.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-chua-ngoc" }
Thỏ Nâu xử kiện
Ngày ấy, ở một làng nọ có một anh nhà giàu sống sung sướng trong lụa là gấm vóc. Cạnh nhà anh ta là túp lều của hai vợ chồng nông dân nghèo. Hai nhà tuy có hoàn cảnh khác nhau nhưng lại xây dựng được tình xóm giềng rất tốt. Họ thường qua lại nói chuyện với nhau. Một hôm có anh thương gia là bạn của anh nhà giàu sang nhà anh nhà nghèo chơi. Ngồi nói chuyện một lúc thì mọi người ngửi thấy mùi xào nấu từ bếp anh nhà giàu bay sang. Vợ anh nhà nghèo nói: - Vợ chồng nhà tôi ăn cơm đúng vào lúc bếp nhà anh nhà giàu xào rau, rán cá thơm phức. Ngửi mùi xào nấu đó chúng tôi chẳng cần ăn cũng thấy no rồi. Anh thấy đấy, cả hai vợ chồng tôi đều béo tốt thế này cơ mà. Người đấy nghe xong liền kể lại cho anh nhà giàu nghe. Nghe xong anh nhà giàu mới hiểu là tại sao nhà mình ăn toàn những món ngon mà chẳng bao giờ thấy có mùi vị, cả nhà ăn đều không thấy ngon và ngày càng gầy đi. Thế là anh nhà giàu giận anh nhà nghèo ra mặt. Còn anh nhà nghèo thì không hiểu tại sao ông bạn láng giềng giàu có của mình tự dưng lại ghét mình đến thế. Anh nhà giàu nghĩ: Phải làm cho ra nhẽ vụ này". Vì thế tức tốc vào kinh thành kính cẩn tâu vua câu chuyện trên. Vua cho gọi anh nhà nghèo đến hỏi: - Chuyện anh nhà giàu nói thế có đúng không? - Đúng ạ - Anh nhà nghèo trả lời: Chúng con ngửi mùi thịt, cá nấu nướng ở bếp nhà hàng xóm bay sang và ăn cơm nhà mình ạ. Nhà vua nghĩ mãi không biết xử trí thế nào bèn nổi trống triệu tập triều đình và dân chúng lại tuyên bố: - Ai xử được vụ kiện giữa anh nhà giàu và anh nhà nghèo ta sẽ phong cho làm tể tướng. Cả nước lan truyền lệnh vua nhưng chưa thấy ai nhận xử vụ này. Sứ giả nhà vua đi mãi, cuối cùng gặp được thỏ nâu. Thỏ nâu hỏi: - Bác sứ giả ơi, có chuyện gì xảy ra vậy? - Nhà vua đang rất bối rối vì có anh nhà giàu và anh nhà nghèo kiện nhau. Vua sai tìm người tài giỏi xử giúp. Nếu ai xử được sẽ được phong làm tể tướng - Sứ giả trả lời. - Hãy về thưa với nhà vua rằng tôi sẽ xử được vụ này - Thỏ vừa nhai rau ráu cà rốt vừa trả lời. - Vậy thì đi ngay thôi. Thỏ nâu theo sứ giả vào cung. Nghe sứ giả tâu là có một con thỏ muốn nhận xử vụ này, nhà vua rất ngạc nhiên. Nhưng rồi nhà vua cũng đồng ý và ra lệnh cho thỏ: - Nhà ngươi phải xử cho công bằng để dân chúng được thấy. Nếu xử không công bằng ra sẽ chém đầu nhà ngươi. - Cái đó tuỳ ngài - Thỏ nâu trả lời. Thỏ nâu ngồi lên ghế quan toà và bắt đầu xét xử. Thỏ cho gọi anh nhà giàu và vợ chồng anh nhà nghèo đến. Thỏ hỏi anh nhà giàu trước: - Theo anh mùi vị thức ăn mà anh nhà nghèo ngửi phải trả với giá bao nhiêu? Anh nhà giàu ngãi tai, mãi mới ấp úng trả lời: - Tôi nghĩ phải đáng trăm đồng bạc, không kém. Thỏ quay sang anh nhà nghèo hỏi: - Có phải vợ chồng anh ăn cơm vào lúc bếp nhà hàng xóm bốc mùi xào rán thức ăn không? - Đúng đấy ạ - anh nhà nghèo trả lời - Chúng tôi ăn cơm vào lúc đó. Ông biết không mùi thức ăn của họ bay lên ngào ngạt. - Thế anh có vào nhà hàng xóm khi họ xào nấu thức ăn không? - Không bao giờ. Thỏ quay ra chất vấn anh nhà giàu: - Anh nhà nghèo nói không sai chứ. - Không sai. Anh ta không đến bao giờ - Anh nhà giàu trả lời. Thỏ nâu quay lại chỗ nhà vua, xin cho mượn trăm đồng bạc và ra lệnh lấy rèm vải ngăn phòng xử ra làm đôi, một bên anh nhà nghèo ngồi, một bên anh nhà giàu ngồi, sau đó Thỏ đưa tiền cho anh nhà nghèo: - Hãy đếm đi, đếm to vào. Thỏ bảo: Còn anh nhà giàu, hãy chú ý nghe tiếng đếm. Anh nhà nghèo đếm: "Một, hai, ba,..., một trăm". Khi đấy Thỏ nói với anh nhà giàu: - Thế nào, ông nhận đủ một trăm rồi chứ. Rồi Thỏ quay ra nói lớn: - Anh nhà nghèo chỉ ngửi mùi thức ăn mà không được ăn nên đã trả tiếng đếm tiền cho anh nhà giàu. Như vậy là công bằng. Phiên toà kết thúc. Lúc chuẩn bị ra về, Thỏ nâu bảo: - Những chuyện lặt vặt như thế này các ngươi phải tự giải quyết lấy, không phải chuyện gì cũng đưa nhau ra tòa xét xử mất thời gian công sức mà lại mất cả tình hàng xóm láng giềng nữa. Hai người gật đầu xin hứa sẽ sống tốt hơn để không làm phiền ai và giữ được tình người.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tho-nau-xu-kien" }
Lâm Sanh và Xuân Nương
Ngày xưa, quan tổng đốc Lâm Phụng huyện Châu Thai nổi tiếng hiền đức bao nhiêu thì phu nhân Lý Phi Nương mang tiếng độc ác bấy nhiêu. Khi quan tổng đốc qua đời, phu nhân cưới nàng Xuân Nương cho con trai là Lâm Sanh. Nhưng phu nhân không cho Lâm Sanh và Xuân Nương chung chăn gối bởi lẽ bà xem Xuân Nương như kẻ tôi đòi. Thương vợ, Lâm Sanh lén mẹ đi gặp Xuân Nương ở nhà sau để an ủi, thở than. Xuân Nương về làm dâu ở nhà họ Lâm đã ba năm mà chẳng có tin về, làm cho vợ chồng Tiều lão thêm lo lắng. Hai ông bà lặn lội xuống Châu Thai thăm con. Thấy vợ chồng Tiều lão nghèo, phu nhân ra chiều khinh rẻ, tiếp đón lạnh nhạt. Lúc lâu phu nhân mới cho Lâm Sanh dẫn Xuân Nương ra chào cha mẹ. Ông bà Tiều lão sững sờ, chết lặng khi thấy Xuân Nương tìêu tuỵ, quần áo tả tơi. Tiều lão đòi bắt con về, nhưng phu nhân nào có chịu… Không thể nào bắt Xuân Nương về được, vợ chồng Tiều lão lủi thủi ra về mà lòng già tan nát. Phu nhân tức giận quát hỏi: – Xuân Nương, mày đã nói hành nói tỏi gì với cha mẹ mày mà ổng bả làm dữ đòi dẫn mày về? – Xin mẹ tha thứ cho con, con đâu có dám. – Con kia, chớ có qua mặt bà, gia nhân đánh nó cho ta. Gia nhân nào dám cãi, đánh cho đến khi phu nhân hả giận thì Xuân Nương thịt nát xương tan. Trở về nhà, vợ chồng Tiều lão buồn bã, thương thân con trẻ gặp bà mẹ chồng độc ác. Bỗng một đêm đang ngủ, vợ chồng Tiều lão thấy Xuân Nương hiện về báo mộng: “Cha mẹ ơi! Mẹ chồng con cho gia nhân đánh con tới chết rồi vùi xác con ngoài bờ ruộng. Con chỉ về thăm cha mẹ trong đêm dài giá lạnh mà thôi!”. Ông bà Tiều lão chỉ kịp kêu lên: “Xuân Nương con!…” rồi ngồi bật dậy, ông bà nhìn nhau khóc ròng. Thương con bao nhiêu, càng giận phu nhân bấy nhiêu, con người sao quá hiểm sâu, độc ác. Vợ chồng Tiều lão làm cáo trạng lên huyện đường. Quan huyện đã nhận hối lộ của phu nhân nên xử ép vợ chồng Tiều lão: – Con gái ông bà lâm bệnh bất kỳ tử mà chết, chứ phu nhân họ Lâm thương con dâu không hết, giết chóc làm chi, ông bà nên bỏ qua đi. Không kêu oan đựơc ở cửa huyện đường, ông bà Tiều lão cương quyết đòi cáo trạng lên tiếp cửa trên… Lòng thương con thúc đẩy ông bà Tiều lão vựơt qua vạn dặm đầy nguy hiểm, thẳng tới Trường An dâng cáo trạng lên vua. Xem xong, đức vua truyền cho toà tâm pháp công đồng xét xử. Đức vua truyền gọi Lâm Sanh, buộc chàng khai sự thật. Phu nhân tội ác rõ ràng, đức vua quyền đem ra xử trảm để răn kẻ ác tâm. Động lòng hiếu tử, Lâm Sanh liều chết xông vào pháp trường cõng mẹ chạy thoát thân. Kiệt sức, Lâm Sanh té quỵ. Đốc tướng đem binh đuổi theo bắt đựơc, giải về triều. Đức vua nổi trận lôi đình, truyền đem phu nhân chém ngay, còn Lâm Sanh giam vào ngục tối chờ ngày xét xử. Vào một đêm trăng sáng, công chúa nhàn rỗi ra dạo vườn hoa, bỗng thấy hào quang sáng rực từ ngục tối. Công chúa bàng hoàng kinh ngạc, cùng thế nữ đến tận nơi dò xét, thấy một trang thư sinh khôi ngô tuấn tú… Vào triều, công chúa tâu lại với phụ vương những điều kỳ lạ mới thấy. Nhà vua truyền quân hầu vào ngục đem Lâm Sanh tới hầu. Muốn thử tài thơ văn của Lâm Sanh, đức vua liền ra đề. Lâm Sanh nhận lấy tờ hoa tiên, đặt bút thảo thành chương đem dâng lên. Xem xong đức vua khen ngợi vô cùng. Đức vua ra lệnh ân xá và cho Lâm Sanh đựơc ứng thí. Lâm Sanh đỗ trạng nguyên đựơc gả công chúa. Được hiển đạt, Lâm Sanh về Châu Thai thăm nhà. Chàng thăm cố hương chưa đựơc bao lâu thì có Khâm sai đến triệu về kinh. Lúc qua trước mộ Xuân Nương, Lâm Sanh liền cúng hoa quả và khấn vái. Khâm sai lại giục giã lên đường, chàng đành gạt lệ ra đi. Lòng chung thuỷ của Lâm Sanh động đến trời cao. Xuân Nương nhập về với xác ở miễu đường chờ đợi sẽ được đoàn tụ với mẹ cha. Một hôm vợ chồng Tiều lão định xuống Trường An thăm Lâm Sanh. Đi một đoạn bỗng gặp một cô gái: – Lạ quá, tôi thấy con nhỏ này sao giống tạc con Xuân Nương đó ông? Ông cũng không tin, cho người giống con chớ con chết rồi làm sao sống lại đựơc. Nhưng Xuân Nương nhận ra cha mẹ, ôm lấy hai người mừng mừng tủi tủi. Vợ chồng Tiều lão xuống tới Trường An, liền đưa Xuân Nương vào dinh. Tiều lão thử Lâm Sanh: – Liễu Hoa em ruột Xuân Nương, nay chị đã qua đời xin thế cô em. Lâm Sanh nói: – Thưa nhạc phụ, một lời đã hẹn với Xuân Nương thì không khi nào con dám lỗi hẹn, để tủi lòng người đã khuất. Đây chính là vợ con. Tiều lão khen thầm Lâm Sanh quả là kẻ trượng phu son sắt một lòng. Xuân Nương cảm động kể hết sự tình. Hôm sau, Lâm Sanh đưa Xuân Nương vào bệ kiến đức vua tâu hết sự tình. Vua khuyên Lâm Sanh xử sao cho vẹn mối tình với Xuân Nương và công chúa. Nghĩ mình già yếu, đức vua chọn lấy ngày lành, truyền ngôi cho quốc trạng Lâm Sanh. Lâm Sanh phong cho Xuân Nương và công chúa là hoàng hậu ngang nhau.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lam-sanh-va-xuan-nuong" }
Sự tích hoa mười giờ
Tia nắng ban mai hôm nào cũng đi ngang qua cửa phòng cô bé nhưng cô bé lúc thì mải chơi, lúc mải học cho nên ít khi để ý tới nó. Căn phòng của cô bé hướng ra mảnh vườn nhỏ mà ở đó ba của cô bé đã trồng rất nhiều loài hoa như thược dược, lay ơn, trà mi, cúc trắng, những bông hoa đó vừa to lại vừa rực rỡ nhìn rất thích mắt, bàn học của cô bé sát bên cửa sổ cho nên lúc nào cũng ngát hương thơm. Phía ngoài liền kề với cửa sổ là một bồn hoa nhỏ, đó là nơi cô bé trồng những loài hoa ưa thích của mình thế nhưng loài hoa nào cũng chỉ được thời gian đầu là còn to và rực rỡ, càng về sau chúng càng bé dần, cánh lợt lạt không còn sặc sỡ nữa. Mấy hôm trước lớp của cô bé đi cắm trại trong rừng, lúc dạo chơi bên suối cố bé thấy một vạt hoa màu trắng li ti mọc lan bên những tảng đá, cô bé rất thích nên đã mang về nhà trồng. Được chăm chút cẩn thận chẳng mấy chốc thân của chúng đã vươn ra khắp cả bồn hoa tạo thành một tấm thảm xanh tốt, thế nhưng cô bé chờ mãi mà chẳng thấy có hoa gì cả. Cô bé nghĩ hay tại nó quen mọc trên những tảng đá nên cũng để thử mấy hòn đá vào nhưng cũng vô ích. Các bạn bảo hay tại nó lạ đất, cô bé không nghĩ thế nhưng cũng chẳng hiểu tại sao nữa. Một ngày đầu tuần cô bé ốm không tới trường được. Buổi sớm nằm trên giường cô bé cảm thấy buồn, giờ này các bạn đã đi học cả rồi chẳng còn ai chơi cả. Đang nằm vẩn vơ suy nghĩ chợt cô bé thấy căn phòng bừng sáng, nhìn ra thấy bóng nắng đã ngấp nghé bên song cửa rồi tia nắng ban mai từ vườn hoa rực rỡ ùa vào. Tia nắng bảo cô bé: – Sao hôm nay đầu tuần mà cô bé lại ở nhà thế, có chuyện gì mà trông cô bé có vẻ buồn thế. Cô bé đáp: – Chào tia nắng ban mai, hôm nay tôi bị ốm không thể đi học được, các bạn đi học cả không có ai chơi cùng nên tôi buồn quá đi mất. Tia nắng ban mai nói: – Thế thì chúng ta kết bạn với nhau đi, bạn có đồng ý không? Cô bé nói: – Đồng ý, mình đồng ý. Tia nắng mừng rỡ, nó xua tan không khí lạnh léo ra khỏi phòng, căn phòng của cô bé trở lên ấm áp và sáng bừng lên. Cô bé ngồi dậy vui đùa cùng tia nắng, tia nắng nhẹ nhàng chải mái tóc cho cô bé, vừa chải nó vừa đùa nghịch những sợi tóc dài, chợt nó bảo cô bé: – Cô bé với tay lấy gương soi xem có thấy gì không ? Cô bé với tay lấy gương, trong gương khuân mặt cô bé rạng rỡ hồng hào hẳn lên, nét mệt mỏi xanh xao ban sáng đã không còn nữa, cô bé rất vui say sưa trò chuyện cùng tia nắng. Mặt trời lên cao dần, bóng nắng từ từ rời xa căn phòng cô bé, thấy tia nắng ban mai bịn rịn chưa muốn tạm biệt cô bé, mẹ mặt trời liền gọi. – Đi thôi tia nắng ban mai ơi, bóng nắng đã đi rồi, nếu chậm lại con sẽ không theo kịp mất, còn có điều gì để ngày mai hãy nói. Tia nắng ban mai nghe mẹ gọi vội đáp: – Vâng, con sẽ đi ngay đây mẹ ạ. Rồi tia nắng ban mai bảo cô bé: – Đã tới giờ mình phải đi rồi, những nụ hoa đang chờ mình, mình phải cho chúng kịp nở để mang hương sắc đến cho ngày mới. Thôi mình phải đi đây, ngày mai chúng ta sẽ găp lại. Cô bé nói: – Bạn làm công việc có ích biết bao, mình vừa kịp nghĩ ra bài thơ mình, mình đọc tặng bạn nhé. Cô bé khe khẽ đọc: ” Bông hoa đỏ thắm xinh xinh Nở ra trong ánh bình minh sáng ngời Dù đi khắp bốn phương trời Màu hoa tình bạn muôn đời chớ phai.” Tia nắng ban mai nghe xong bài thơ bảo cô bé: – Cám ơn bạn rất nhiều về bài thơ đầy ý nghĩa này, mình rất cảm động trước những lời nhắn nhủ mà bạn đã gửi gắm trong bài thơ, còn rất nhiều những điều mà mình muốn nói nữa nhưng mình phải đi rồi, thôi để mai nói vậy. Rồi tia nắng ban mai vụt qua cửa sổ để chạy theo bóng nắng, cả hai cùng tới vườn hoa bên kia chân đồi. Phía chân đồi là một vườn hoa trải dài ngút tầm mắt. Khi tia nắng tới thì vườn hoa hãy còn ngập chìm trong màn sương ẩm ướt, những bông hoa còn ngủ vùi trên cành, bên cạnh đó là vô số nụ hoa mới nở ngậm đấy sương sớm long lanh. Tia nắng bạn mai nhẹ nhàng đánh thức từng bông hoa dậy rồi khẽ chiếu luồng sáng vào từng nụ hoa chớm nở. Tia nắng ban mai làm việc rất cẩn thận cố tránh không để luồng sáng rọi vào những nụ hoa còn non vừa mới nhú khỏi cành, nếu sơ ý rọi vào làm những nụ hoa đó nở ra chúng sẽ chẳng có màu sắc lẫn hương thơm. Tia nắng ban mai cứ mải miết làm việc, bóng nắng lan tới đâu những bông hoa nở rộ lên tới đó, chỉ một lát vườn hoa đã ngập tràn hương sắc những bông hoa tươi thắm, mùi hương lan trong gió tỏa đi khắp nơi. Tia nắng rất vui, nó cùng với bóng nắng đi tới những vườn hoa khác, còn bao nhiêu vườn hoa nữa đang chờ chúng, vừa đi tia nắng ban mai vừa đọc bài thơ mà cô bé tặng, phía trên cao mẹ mặt trời lắng nghe và âu yếm nhìn nó mỉm cười. Buổi chiều khi cơn sốt đã hạ đi rất nhiều, các bạn cô bé đến thăm rất đông, cô bé bảo các bạn: – Các bạn ạ, sáng nay mình vừa có thêm một người bạn mới đấy. Các bạn cô bé hỏi: – Ai thế, có ở gần đây không, cậu nói cho bọn mình biết với? Cô bé nói: – Gần lắm, bạn đó ở rất gần chúng ta thôi, mình nói ra chắc các bạn ngạc nhiên lắm bởi thường ngày chúng ta vẫn gặp. – Người đó là ai thế? – Đó là tia nắng ban mai Nghe cô bé nhắc tới tia nắng ban mai các bạn cô bé cảm thấy rất bất ngờ và thú vị về người bạn mới này. Đúng là tia nắng ban mai thì thường ngày họ vẫn gặp nhưng chẳng ai kết bạn cả. Mà thực ra mọi người không còn thời gian để quan tâm nữa, các bạn cô bé nếu không bận học thì cũng mải mê với những trò chơi hấp dẫn. Thấy cô bé háo hức kể về người bạn mới của mình, các bạn cô bé hỏi. – Bọn mình cũng muốn làm bạn với tia nắng, không biết tia nắng có đồng ý hay không. Cô bé nói: – Được chứ, nếu các bạn có ý định đó thì sớm mai mình sẽ nói với tia nắng ban mai. Nghe thế các bạn cô bé rất vui, tất cả cùng háo hức chờ đợi. Sáng hôm sau cô bé dậy từ rất sớm để chào đón tia nắng ban mai, đêm qua cô bé đã ngủ một giấc rất dài. Mở cửa sổ cô bé nhìn ra ngoài, khắp nơi còn chìm trong màn sương sớm, khu vườn im lìm không một tiếng động, giờ này các bạn cô bé có lẽ đang tung tăng tới trường, cô bé nghĩ thế. Chờ mãi cô bé vẫn chưa thấy tia nắng ban mai đâu cả, thời gian trôi đi, cô bé nghĩ. Mọi ngày tia nắng ban mai tới từ rất lâu rồi, sao hôm nay chẳng thấy đâu cả, hay tại tia nắng bận ở đâu đó, mình đợi thêm một lát vậy. Thế nhưng chở rất lâu mà tia nắng ban mai vẫn chưa tới, lòng cô bé rối bời. Bác sỹ đến khám và buộc lòng cô bé phải đóng cửa lại, sau khi uống thuốc cô bé nằm một mình trong bóng tối mờ mờ ảo ảo của căn phòng và suy nghĩ miên man và rồi cô bé đã thiếp đi lúc nào không biết nữa. Căn phòng yên vắng, cái lạnh bao trùm khắp nơi nơi, chợt cô bé bừng tỉnh, một cảm giác ấm áp bao quanh mình, căn phòng của cô bé bừng sáng. Như có cái gì đó thôi thúc cô bé vội chạy đến bên cửa sổ và mở ra, như không còn tin ở mắt mình nữa cô bé reo lên: – Ôi, những bông hoa đẹp quá Trước mắt cô bé là những bông hoa đỏ thắm xinh xinh tràn ngập trong bồn hoa, cô bé tự nhủ. – Không biết là thật hay là mơ đây nhưng đúng là thật rồi. Sau phút giây ngỡ ngàng cô bé nghĩ: “Ơ tại sao lại như vậy nhỉ, hoa của chúng phải là màu trắng chứ, hôm ở bên suối mình có thấy chúng màu đỏ đâu.” Trầm ngâm một lát cô bé nghĩ: “Những bông hoa này tuy mình mới gặp lần đầu nhưng trông quen quá, có cảm giác như chỉ mới gặp từ hôm qua thôi, không biết ai đã tạo ra nữa. À, mà mình nhớ ra rồi, những cánh hoa này rất giống cánh hoa mà mình đã đọc trong bài thơ mà mình đã tặng tia nắng ban mai hôm qua, thế nhưng bài thơ đó chỉ có mình và tia nắng biết thôi, hay là do tia nắng ban mai tạo ra, hôm qua tia nắng ban mai có nói đến công việc là cho những bông hoa nở ra, vậy thì đúng rồi, đúng tia nắng đã tạo ra những bông hoa này để tặng mình. Vậy là tia nắng ban mai có tới thế nhưng mình không hiểu tại sao tia nắng lại tới muộn như vậy nhỉ.” Cô bé nhìn ra ngoài, mặt trời đã lên cao, đang tỏa ánh nắng rực rỡ xuống khắp nơi nơi. Đang mải suy nghĩ về tia nắng ban mai đột nhiên cô bé bỗng thấy bầu trời bỗng tối sầm lại, một đám mây lớn kéo tới che mất ánh nắng mặt trời, những bông hoa không còn rực rỡ nữa, phải một lát khi đám mây trôi đi ánh nắng mặt trời chiếu trở lại lúc đó những bông hoa mới tiếp tục đua sắc. Nhận ra được điều gì đó cô bé khẽ reo lên. À, mình biết vì sao tia nắng ban mai tới muộn rồi, thì ra ban sớm trời nhiều mây quá cho nên tia nắng ban mai không thể nào tới được chỗ mình, phải đợi mây tan, trời quang thì tia nắng mới tới được nhưng mình lại đóng cửa rồi, chắc là mải đi cho nên tia nắng đã tạo ra những bông hoa này để nhắn lại cho mình biết, ôi nếu thế thì hay quá, chiều nay thế nào các bạn cũng bất ngờ cho mà xem. Buổi chiều các bạn cô bé đã đến đông đủ, thế nhưng nghe cô bé nói đã lỡ không gặp được tia nắng ban mai các bạn đều cảm thấy tiếc nuối, cô bé bảo các bạn. – Các bạn ạ, tuy rằng tia nắng ban mai tới không gặp được mình nhưng trước khi đi tia nắng có để lại một thứ rất có ý nghĩa để nhắn cho mình. Các bạn cô bé vội hỏi – Thật thế sao, bọn mình xem với có được không? Cô bé nói. – Được chứ Thế rồi cô bé đến bên cửa sổ và mở ra, các bạn cô bé thấy thế đều reo lên. – Ôi, đẹp thế, những bông hoa ở đâu mà đẹp thế này, từ trước đến giờ bọn mình chưa thấy nó bao giờ cả. Cô bé bèn kể cho các bạn nghe rằng trước khi chia tay đã tặng tia nắng ban mai một bài thơ để làm kỷ niệm, rồi cô bé đọc bài thơ đó cho các bạn nghe, nghe xong bài thơ một bạn nói. – Các cậu ạ, những bông hoa này rất giống những bông hoa trong bài thơ chúng ta vừa nghe, đúng là món quà của tia nắng ban mai tặng rồi, các bạn có nghĩ như vậy không. Các bạn cùng nói: – Đúng đấy, bọn mình cũng nghĩ như vậy Thấy các bạn đều nhất trí với ý kiến của mình, cô bé nói: – Mình đặt tên cho nó là hoa tình bạn , các bạn có đồng ý không? Các bạn cùng nói: – Bọn mình đồng ý Mọi ngưởi rất vui cùng ca hát bên những bông hoa tình bạn kia cho tới khi chiều xuống, các bạn tạm biệt cô bé ra về trong lòng ai cũng háo hức và thầm mong ngày mai trời sẽ nắng đẹp. Nhưng rồi đêm hôm đó trời đổ mưa rào rất to, sáng hôm sau mây xám giăng đầy trời, lòng cô bé rối bời bởi khi biết rằng hôm nay tia nắng ban mai sẽ không tới. Một cơn mưa to cắt ngang dòng suy nghĩ của cô bé, cô bé đành khép cửa sổ lại lòng buồn thiu, đến chiều mưa vẫn cứ rơi, các bạn không tới, cô bé nghĩ Vậy là thứ tư đã trôi qua, cầu mong ngày mai trời sẽ nắng đẹp Nhưng ngày thứ năm và cả ngày thứ sáu trời vẫn cứ mưa, niềm mong chờ của cô bé và các bạn vẫn chưa đến. Hôm nay đã là ngày thứ bẩy rồi mà sớm mai mưa vẫn cứ rơi tầm tã, mấy ngày ở trong phòng cô bé rất buồn và cảm thấy thời gian trôi đi chậm chạp làm sao, những lúc buồn cô bé lại mở cửa sổ nhìn bên ngoài, dưới làn mưa những bông hoa trong bồn và cả những bông hoa trong vườn nở từ mấy hôm trước đã rũ hết xuống chỉ còn lơ thơ vài nụ non cũng đang rạp mình vì những cơn mưa. Cô bé nghĩ. Ngày mai là chủ nhật rồi, không biết trời có tạnh ráo không, ước gì ngày mai tạnh ráo để các bạn và tia nắng ban mai tới. Buổi chiều trời ngớt mưa dần, những hạt mưa không rơi nặng hạt nữa, cô bé rất mừng khi bác sỹ đến khám và nói rằng tuần sau là cô bé có thể đi học được. Nghĩ tới bạn bè, thầy cô lòng cô bé đầy háo hức. Rồi trời cũng tạnh mưa. Bầu trời quang đãng và sáng sủa hẳn lên so với mọi hôm. Khi màn đêm buông xuống cô bé lên giường lòng thắc thỏm không yên, hình ảnh mặt trời rực rỡ chập chờn trong giấc mơ của cô bé. Cô bé ngủ một giấc dài cho đến khi những tiếng chim đùa vui ngoài vườn đánh thức cô bé dậy, chạy vội đến bên cửa sổ cô bé vội mở toang ra và reo lên. Ôi thế là ngày mình mong ước cũng đã tới, phải dọn dẹp lại căn phòng để đón các bạn và tia nắng mới được. Thế rồi vừa thu dọn đồ đạc cô bé vừa khe khẽ hát một mình, một lát sau các bạn đã đến đầy đủ và bắt tay vào dọn dẹp với cô bé. Chẳng mấy chốc căn phòng đã sạch sẽ gọn gàng, chiếc đồng hồ trên tường nhích dần từng giây một, mọi người cùng trông ra cửa sổ và chờ đợi tia nắng ban mai. Và kia rồi, tia nắng ban mai đã tới cùng với ánh nắng mặt trời rực rỡ, khu vườn bừng sáng với đủ các sắc hoa. Bóng nắng ngấp nghé trước phòng cô bé, tia nắng ban mai đã tới nhưng vẫn còn ngập ngừng thoáng chút bối rối chưa vào, cô bé thấy tia nắng còn lưỡng lự bèn gọi Tia nắng ban mai ơi, hãy vào đây đi chứ, trong này toàn là các bạn của mình mà. Tia nắng ban mai lúc đó mới bước vào căn phòng của cô bé làm căn phòng sáng bừng lên. Cô bé bảo tia nắng ban mai. – Tia nắng ạ, mình có chuyện này muốn nói với cậu, chắc hẳn thường ngày tia nắng và các bạn ở đây vẫn gặp nhau nhưng chỉ coi nhau như người xa lạ. Hôm nay mình muốn tia nắng và các bạn đây chúng ta cùng kết bạn với nhau để chia sẻ buồn vui trong học tập và cuộc sống, tia nắng đồng ý không. Tia nắng ban mai nói – Mình đồng ý, nếu được như vậy thì còn gì bằng nữa, đó là ao ước bấy lâu nay của mình . Nghe thế cô bé và các bạn rất vui, tất cả cùng nắm tay nhau nhảy múa, ca hát cùng tia nắng ban mai, tia nắng ban mai nhảy múa đùa vui cùng các bạn. Chợt nhớ đến những bông hoa của mình cô bé bảo tia nắng. – Tia nắng ơi, mình cám ơn cậu đã tặng mình những bông hoa trong bồn hoa này, từ giờ nó không phải của riêng mình nữa mà là của tất cả chúng ta ở đây, tia nắng đồng ý không. Tia nắng ban mai nghe cô bé nói thì ngơ ngác hỏi – Bạn nói đến những bông hoa nào cơ, mình không hiểu? Cô bé nói – Những bông hoa trong bồn hoa này, mình đã đọc tặng cậu bài thơ về loài hoa đó và cậu đã tạo ra chúng đúng không? Tia nắng ban mai nhìn bồn hoa rồi reo lên – Ôi đẹp thế, đúng là có những bong hoa đó rồi nhưng sao lạ vậy. Thường ngày tia nắng vẫn bước qua bồn hoa để vào phòng cô bé, tia nắng không mấy khi để ý tới bồn hoa vì chỉ thấy một đám cỏ tốt ở đó chứ không thấy có hoa gì cả, hôm nay cũng vậy, tia nắng vào phòng cô bé và cũng không để ý tới bồn hoa gì cả mà không biết rằng trong bồn hoa đã có sự đổi khác, những nụ hoa chúm chím sắc hồng tươi mà nếu nở ra chúng sẽ y hệt như loài hoa trong bài thơ mà cô bé đã tặng cho tia nắng. Tia nắng nghĩ Nếu những nụ hoa này nở ra thì chúng chính là những bông hoa trong bài thơ cô bé tặng mình, nhưng các bạn đã nhầm rằng mình đã tạo ta chúng, mình phải nói cho các bạn biết mới được. Nghĩ vậy tia nắng ban mai bảo các bạn. Các bạn à, mình không tạo ra loài hoa này được, chỉ có mẹ mặt trời mới tạo ra được thôi, ngoài ra mẹ mình còn cho mỗi loài hoa một mùi hương và màu sắc riêng để cho khỏi nhầm lẫn, nhiệm vụ của mình là cho những nụ hoa nở ra thành những bông hoa rực rỡ thôi. Nghe tia nắng ban mai nói vậy cô bé và các bạn đều ngỡ ngàng, suy nghĩ một lát cô bé bảo tia nắng. Nếu đúng như vậy thì hay quá, đây là món quà mà mẹ cậu đã tặng cho chúng ta rồi. Tia nắng ban mai nói – Mình cũng nghĩ như vậy, nhưng mình không biết nó đã có từ khi nào. Cô bé nói: – Chúng có từ mấy hôm trước, vào buổi sáng khi bạn đến muộn đấy Tia nắng ban mai nói: Hôm đó tuy mình đã hẹn nhưng buổi sáng mây mù mãi chẳng tan cho, khi tan đi thì mẹ mình đã lên cao lắm rồi cho nên mình và bóng nắng đã ở nơi rất xa không thể nào quay lại để gặp bạn được nữa, tất cả những nụ hoa mình bỏ lại phía sau đều phải nhờ mẹ mặt trời cho nở giúp. Chắc là khi cho những nụ hoa trong vườn kia nở mẹ mình đã tạo ra nó chăng. Thế nhưng mình cảm thấy rất lạ là trước khi tạo ra một loài hoa nào mới mẹ mình đều nói cho mình biết, thế nhưng loài hoa này mình không thấy mẹ nói gì cả, càng lạ hơn nữa là mặc dù mình cố sức cho những nụ hoa nở ra nhưng chúng vẫn không nở. Nghe tia nắng nói các bạn mới chú ý đến điều đó, đúng là nó vẫn chưa nở ra thật, nếu là những loài hoa khác chúng đã phải nở rồi, mọi người ngạc nhiên và nhìn nhau không hiểu tại sao, không khí trong phòng lắng xuống. Bỗng tia nắng ban mai nghe có tiếng mẹ goi từ trên cao – Tia nắng ban mai ơi, con hãy lên đây để mẹ nói cho con hiểu. Nghe mẹ nói tia nắng ban mai bảo mọi người – Không biết mẹ gọi mình có việc gì, các bạn chờ mình một lát nhé. Nói rồi tia nắng vút lên không trung và hỏi mẹ – Mẹ ơi, mẹ gọi con có việc gì vậy ? Mẹ mặt trời bảo tia nắng ban mai. – Con ạ mẹ muốn nói với con một chuyện, mẹ đã nghe hết câu chuyện giữa con với các bạn của con rồi, đúng là loài hoa đó do mẹ tạo ra theo ý mà bài thơ cô bé đã tặng cho con. Hôm đó vì con không tới với cô bé như đã hẹn được cho nên mẹ nghĩ không nên để cô bé mất niềm tin và tạo ra chúng để nhắn giúp con tới cô bé. Con ạ, loài hoa đó không giống với những loài hoa mà mẹ đã tạo ra trước đây, nó chỉ nở vào đúng một giờ duy nhất con ạ. Qua đây mẹ rất hài lòng vì con không tự nhận mình đã tạo ra loài hoa đó, như vậy là con rất thành thật, điều đó rất tốt cho tình bạn con ạ, trong tình bạn nếu không có sự thành thật thì sẽ không tồn tại được lâu dài đâu con ạ. Nghe mẹ dặn tia nắng ban mai rất xúc động cám ơn mẹ rồi chạy tới với các bạn. Tia nắng ban mai kể lại cho các bạn nghe về loài hoa đó do chính mẹ mình tạo ra tặng riêng cho tia nắng và các bạn, cô bé và các bạn rất vui và cảm động về món quà đầy ý nghĩa đó. Thế rồi chẳng bao lâu sau câu chuyện về loài hoa tình bạn của cô bé và các bạn đã được truyền đi, rất nhiều các bạn khác nữa đã biết tới và nhờ cô bé và các bạn làm nhịp cầu mà tia nắng ban mai đã có thêm nhiều người bạn mới, bên cửa sổ của bạn nào cũng có một chậu hoa nho nhỏ lấy từ bồn hoa của cô bé, nó làm cho tình bạn của tia nắng ban mai với mọi người thêm gắn bó hơn, đồng thời cũng làm cho góc học tập của các bạn thêm đẹp hơn. Thấy những bông hoa trong chậu hoa của mình nở ra khi tiếng chuông đồng hồ lảnh lót đánh lên mười tiếng các bạn đặt tên cho nó là hoa mười giờ, có bạn đặt tên cho nó là hoa đồng hồ, một loài hoa không bao giờ lỗi hẹn. Nhờ có loài hoa đó mà cô bé và các bạn đã nhận ra rằng bên cạnh những người bạn ở trường, ở lớp ra thì còn có rất nhiều bạn nữa ở ngay thiên nhiên xung quanh nơi mình sống, chỉ cần chăm sóc và bảo vệ thiên nhiên là đã có những người bạn đó rồi và khi đó sẽ được nhận những món quà đầy ý nghĩa mà thiên nhiên trao tặng .
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-muoi-gio" }
Thần Lúa - Truyện cổ tích dân tộc Tày
Ngày xưa có một người đàn bà nghèo, tuổi cao rồi mới sinh được một cậu con trai. Bà đặt tên con là Pọ Khâu (có nghĩa là Bố Lúa) , ý mong mỏi con sẽ không phải ăn trái cây, lá rừng quanh năm suốt tháng như mình. Pọ Khâu lớn lên rất khỏe. Sức vật ngã cả trâu đực. Pọ Khâu rất yêu thương mẹ. Mẹ ốm nặng, Pọ Khâu lo lắm. Ai mách thuốc gì, ở đâu, dù phải leo đèo, lội suối, Pọ Khâu cũng đi. Nhưng không thuốc nào chữa khỏi. Thật ra, bà mẹ đói, thèm bát cơm. Một hôm trên đường đi tìm lá thuốc cho mẹ, Pọ Khâu nằm nghỉ bên suối. Một con chim cu đất bay qua gáy: Muốn mẹ khỏi đau Lấy lúa cho mau Về ăn thì khỏi. Pọ Khâu giật mình, vùng dậy hỏi: – Ở đâu có lúa, hỡi cu đất? Chim cu lại gáy: Yêu tinh mặt đỏ Tích lúa đầy hang. – Nó ở đâu? Pọ Khâu hỏi. Cu đất hất mỏ chỉ ngọn núi cao rồi cất cánh bay đi. Bay được một quãng, cu đất quay lại, khẽ dặn: Muốn giết yêu tinh Phải rình lúc ngủ. Pọ Khâu về nhà rèn một ngọn lao vừa dài, vừa nhọn, đi tìm yêu tinh. Anh đi hết chín châu, mười mường mới đến được ngọn núi cao, thấy vết chân nó chi chít trên sườn núi. Anh theo vết chân, đến một cái hang rộng. May quá! Nó đang ngủ. Mặt nó đỏ như củ nâu chín, râu nó dài như rễ cây si. Nó ngáy to như sấm, thở phì phà phì phò làm cho cây cối nghiêng như có gió mạnh thổi. Người nó to bằng mười con voi. Con yêu tinh vẫn ngáy như sấm, thở phì phà phì phò. Nó há miệng. Pọ Khâu nhanh như sóc, bám vào râu nhảy phắt lên cổ nó, phóng luôn mũi lao vào cuống họng yêu tinh. Nó kêu rống lên đau đớn rồi khạc khạc… Mũi lao phóng mạnh quá, cắm ngập vào cổ họng nó rồi. Nó giẫy giụa, máu chảy ào ra như suối. Pọ Khâu bị nó hất một cái bay ra cửa hang. Anh ngất đi. Một lúc sau, tỉnh lại, anh vào hang thấy yêu tinh mặt đỏ đã nằm chết cứng. Đúng như cu đất nói, thóc lúa chất đầy cả hang. Pọ Khâu xúc một gùi thóc mang về rồi gọi dân bản lên cùng lấy. Pọ Khâu xay lúa, giã thành gạo, nấu cơm, làm bánh cho mẹ ăn. Quả nhiên, mẹ được ăn cơm, ăn bánh, bệnh giảm dần rồi khỏi hẳn. Cũng từ đó dân bản có thóc ăn, không ai phải ăn trái cây, lá rừng như trước nữa. Mọi người ra sức phát nương, trồng lúa, cuộc sống trong bản ấm no vui hẳn lên. Về sau, để nhớ ơn Pọ Khâu, người dân tôn anh là Thần Lúa . Ngày giỗ ngày Tết bao giờ người ta cũng đặt trên bàn thờ một mâm gạo trắng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/than-lua-truyen-co-tich-dan-toc-tay" }
Sự tích hoa Bồ Công Anh
Đã lâu lắm rồi, khi con người mới hình thành nên các quốc gia và đang cố gắng củng cố sự vững mạnh của đất nước mình. Ở một vương quốc nọ, cũng giống như nhiều quốc gia khác, họ đang sống trong những ngày tháng đầu tiên của một thời kỳ phát triển mạnh mẽ. Cả đất nước dường như sôi nổi và phân kính với sự phát triển. Ở nơi đó, trong một gia đình của vị quan có hai người con trai, một người còn khá nhỏ, người con trai còn lại đã bước sang độ tuổi 14. Cuộc sống của gia đình đối với nhiều người được coi là êm đềm và đầy đủ. Thế nhưng, cho đến một ngày, người cha gọi người con trai lớn và hỏi:” Sống ở trên đời việc lớn nhất đối với người con trai là gì?” Người con trai trả lời: “Là một người con trai thì nên học tập và rèn luyện, còn là một người đàn ông thì phải giữ được cái cốt cách của một người con trai”. Người cha cau mày và nói: “Vậy là con biết mình phải sống thế nào rồi hả?”. “Dạ”- Người con trai đáp. Người cha quay lưng đi mà không nói thêm lời nào. Trong suốt quãng thời gian sau, cậu con trai lớn không ngừng trải qua bao nhiều thách thức của cuộc sống. Những bài học của từ những người trong gia đình đã trui rèn nên một con người, một người đàn ông thực sự. Cậu con trai 14 năm nào đã trở thành chàng thanh niên cao lớn. Trong trái tim chàng là ẩm ủ bao nhiêu hoài bão, bao nhiêu mơ ước. Có những ước mơ thất nhỏ bé như một câu chuyện tình, có những hoài bão to lớn như một vị hoàng đế. Có những mơ ước mà chàng đã giành được, những vinh quang nhỏ nhặt và có cả những thật bại đầy nước mắt. Cho đến một ngày, chàng muốn đi tìm một chỗ đứng riêng cho mình, muốn một cuộc sống độc lập, chàng đã quyết định ra đi. Với nguồn lực của mình và số bạn bè của mình, chàng tự thiết lập cho mình một đội quân. Chàng muốn tự mình xây dựng một đế quốc cho riêng mình. Chàng đã ra đi. Trải qua hàng trăm, hàng ngàn trận đánh. Đi qua biết bao nhiêu ngôi làng, nhưng những gì chàng giành được ngày một hùng mạnh, nhưng trong đàu chàng mới chỉ vọn vẹn có “kinh nghiệm về sự mất mát”.Thời gian dần trôi, mải mê với chính chiến, mái tóc xanh thủa nào đã ngả màu tráng ngà, cái màu của tuổi tác và sự phản chiếu của ánh nắng mặt trời.Vị hoàng đế, một mình một người chậm bước trên đất nước rộng lớn mà mình tạo ra. Ông mải mê đi, đi mãi, và dừng chân nghỉ trong phòng khác của một ngôi nhà nhỏ. Ngước mắt nhìn qua cửa sổ, ánh trăng đã lên cao.Trong mắt ông những kỷ niệm như tràn về, từ những ngày tháng thơ ấu, đến thời gian tha hương, xa xứ. Trong đâu ông hàng loạt những câu hỏi, những suy nghĩ về những gì ông chưa làm được. Ông nhớ những người thân thân, những người bạn, những người ông chưa làm được gì nhiều cho họ… Ánh trăng đã xuống dần và vị hoàng đế gọi chủ nhà lại và nói: “Khi ta chết hãy chôn ta ở nới cánh đồng thảo nguyên rộng lớn ở quê ta. Ta muốn linh hồn ta được về với quên hương, để trở về với nới ta sinh ra. Dù ta ở đâu, bay xa đến đâu cũng sẽ có một ngày ta trở về mảnh đất đó”…”ta muốn gửi muôn phần hồn ta vào gió, phần theo cha, phần gửi mẹ, phần gửi người ta yêu, phần gửi những người ta đã lỡ hẹn, gửi những người cho ta là không đúng…”…”mỗi phần hồn là một lời nguyện cầu, nơi ta đến có nụ cười, có cả nước mắt,…” Ít lâu sau vị hoàng đế băng hà. Theo lời căn dặn của ông, ông được chôn cắt tại thảo nguyên rộng lớn nơi quê hương ông sinh ra. Và từ nơi ông được chôn cắt mọc lên một loài hoa. Loài hoa lạ khi nở hoa trông như như những chiếc răng của loài sư tử. Khi hoa tàn những cánh hoa bay theo làn gió. Những cánh hoa tựa như những cây hoa thu nhỏ. Dựa mình theo gió mà bay… Loài hoa đó được gọi tên hoa Bồ Công Anh… nơi gửi gắm những lời nguyện ước…
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-bo-cong-anh" }
Gan cóc tía
Trong rừng kia có một con cọp rất dữ tợn. Mọi con vật trong rừng đều phải sợ Cọp. Một hôm Cọp đi ngang qua hang Cóc Tía. Có Tía nghĩ bụng: “Mình phải dùng mưu trí để Cọp hết tính hống hách mới được”. Nghĩ vậy, Cóc Tía liền lớn tiếng quát: – Ai đi đó? Từ nay đừng có qua đây mà chết. Chỗ này là nhà của ta! Cọp nghe tiếng, liền hỏi: – Ai nói chi vậy, ta là chúa sơn lâm, ta có sợ ai? Cóc Tía thong thả trả lời: – Ta đây, ta là Cóc Tía, cậu ông Trời đây, mày không biết tiếng của tao sao? Cọp giận quá, nhìn thấy Cóc Tía chỉ to hơn quả trứng vịt, mới quát: – Thằng Có Tía kia, ngươi có tài cán gì mà dám vênh váo với ta? Cóc Tía trả lời: – Cọp thì chỉ có tài nhảy mà thôi, còn ta, tài ta cũng có! Cọp liền thách Có Tía nhảy thi xem ai nhảy xa. Cóc nhận lời. Hai con vậy liền đi ra bờ suối và giao hẹn ai nhảy được sang bờ bên kia suối thì thắng cuộc. Cóc Tía khôn hơn, liền nói: Ta không thèm đứng ngang hàng với ngươi, ta đứng lùi phía sau mà vẫn nhảy xa hơn ngươi cho mà xem. Cọp bằng lòng. Trước khi nhảy, Cọp thường phải đạp đuôi vài cái xuống đất để lấy đà. Cóc Tía liền há miệng ngậm lấy đuôi Cọp. Khi Cọp nhảu sang bên kia suối, quất đuôi mạnh, Cóc Tía liền văng ra đằng trước rất xa. Cọp đành chịu thua. Cóc Tía còn nói: – Ngoài tài nhảy ra, ta còn có tài bắt sống cọp để ăn thịt nữa. Ngươi xem miệng ta thì rõ! Cóc há miệng ra, thấy đầy những lông Cọp. Cọp sợ quá, cong đuôi chạy một mạch. Khỉ đang ngồi trên cay, thấy Cọp có vẻ hoảng sợ, liền gọi Cọp và hỏi: – Có việc gì mà anh sợ vậy? Cọp hổn hển, trả lời: – Thôi, thôi, đừng hỏi nữa, chạy nhanh kẻo chết bây giờ. Có một con vật nhỏ bằng ngón chân tớ mà ăn thịt được tất cả chúng ta. Tên nó là Cóc Tía. Khỉ nghe thế, liền cười và nói: – À! Cóc Tía thì sợ gì, tôi vật một cái thì nó chết ngay. Nó ở đâu, anh dắt tôi lại xem nào! Cọp không tin, tưởng Khỉ định lừa mình. Khỉ nói tiếp: – Anh không tin thì tôi lấy dây buộc chặt tôi vào lưng anh, rồi tôi sẽ trị cho Cóc Tía một phen, cả hai ta cùng đến, anh sợ gì. Cọp nghe nói bùi tai, liền cho Khỉ ngồi lên lưng mình và cột[6] chặt Khỉ để Khỉ khỏi chạy trốn. Hai con vật liền đi tới hang Cóc Tía. Lúc này, Cóc Tía đã bơi qua suối để trở về nhà và thích chí vì đã làm cho Cọp hết hống hách. Khi thấy Cọp và Khỉ trở lại, Cóc Tía nhanh trí liền quát: – Khỉ kia, mày nợ tao mười Cọp, sao hôm nay mày chỉ trả có một con? Cọp nghe thấy vậy, tưởng Khỉ lừa mình, liền cắm đầu chạy miết. Khỉ bị cột chặt vài lưng Cọp, đầu va vào cây, chết nhăn răng. Cọp chạy một lúc, mệt quá, liền ngồi nghỉ. Khi nhìn thấy Khỉ nhăn răng, Cọp còn tức giận mắng: – Ngươi lừa ta, lại còn nhăn răng mà cười à?
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/gan-coc-tia" }
Sự tích cái ống nhổ
Ngày xưa có một nhà sư già nổi danh là một vị đại đạo đức chân tu danh tiếng ngài được truyền đi khắp nơi, bá tánh tứ phương ào ạt tới chùa thọ giáo càng ngày càng đông. Một ngày kia, ngài quyết định đi vào rừng thẳm ẩn dật tu khổ hạnh để tránh phiền phức việc nhận hương đảng trà quả mà phạm pháp. Ngài cho các đệ tử quyền tự do theo thầy hay hồi tục.Trong số đệ tử, chỉ có một chú tiểu tình nguyện đi theo thầy vì chú ta biết thầy có rất nhiều người sùng bái và chắc chắn sẽ có nhiều bá tánh theo cúng dường hoa quả. Tội nghiệp thay cho chú, băng qua bao rừng núi thăm thẳm, thầy mới chọn một hang động nơi thâm sơn cùng cốc không một ai qua lại. Hai thầy trò phải làm rất vất vả mới có bữa ăn. Chú tiểu chịu không được tính bỏ thầy nhưng lại sợ băng qua rừng đầy beo cọp, thú dữ. Chú chỉ biết chờ cơ hội. Một hôm, có một cậu bé đến xin làm đệ tử của thầy. Chú tiểu từ xưa vốn lười biếng, thấy có "ma mới" tới liền giao hết công việc cho cậu bé. Thấy cậu bé siêng năng, hiền từ, ông thầy già yêu mến và truyền cho nhiều bí quyết. Chú tiểu lại đâm lòng ghen. Một đêm kia, cậu bé ngủ quên, chú tiểu lấy nước tạt tắt hết mồi lửa để nấu nước cúng Phật. Khi cậu bé tỉnh dậy đi nấu nước thì không có lửa. Liều mình, cậu bé cắm đầu chạy vượt ngang rừng thẳm. Cậu lao mình vào một cụ già râu tóc bạc phơ. Cụ già cất tiếng hỏi: - Đêm khuya con đi đâu mà vội vã thế? Cậu bé kể chuyện ngủ quên để lửa tắt bây giờ không có lửa nấu nước cúng Phật nên phải băng rừng tìm lửa. Cụ già nghe kể mới dạy rằng: - Làng gần nhất cũng phải tốn ít nhất một ngày. Ta có cách nhưng con phải làm y như lời ta dạy. Cậu bé đồng ý. Sau đó cụ già sai cậu bé trèo lên cây nhắm mắt lại, khi tiếng ống kêu thì buông tay ra và tới khi im gió mới được mở mắt ra. Câụ bé làm y trang như lời ông dạy. Khi cậu buông tay thì tự nhiên cảm thấy mình ngồi trên bộ lông đang bắt đầu di chuyển. Khi gió im, cậu thấy mình đang ở gần một làng và vội vàng lấy lửa rồi lại leo lên cây y như chuyến đi. Về đến chùa, cậu bé chạy vội xuống bếp nấu nước cúng Phật. Chú tiểu thấy có lửa mới ngạc nhiên hỏi cậu bé. Cậu bé thật thà thuật lại chuyện gặp ông già đêm qua. Bấy giờ chú tiểu mới hiểu rõ là cậu bé đã gặp được một Tiên ông. Đêm đó, chú tiểu xin thầy để việc nấu nước cúng Phật cho mình và các việc khác cho cậu bé. Cũng như đêm trước, chú làm tắt mồi lửa rồi chạy qua rừng. Đến giữa rừng chú tiểu gặp một ông già râu tóc bạc. Ông cũng dạy chú tiểu leo lên cây. Cả mừng vì sắp được thoát rừng, chú tiểu vâng lời leo lên cây và buông tay ra. Ai dè khi buông tay, rớt xuống đầu đập vào đá bể bụng hoá thành Ống nhổ. Hai tay ôm vòng thành bình. Miệng há hốc kêu khi rớt xuống thành miệng ống nhổ. Bá tánh nghe có chuyện không may xảy ra tại động của thầy kéo đến vấn an. Khi đi ngang Ống nhổ, bà con thấy ghét liền nhổ nước miếng vào cho bõ ghét. Từ đó có tích "cái Ống nhổ".
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cai-ong-nho" }
Sự tích Cỏ và Lúa
Ngày xưa cỏ và lúa là con cùng một mẹ. Khi lớn lên, mẹ cho cỏ và lúa ở riêng mỗi người một cánh đồng. Lúa vốn chăm chỉ làm lụng, chịu thương chịu khó nên mỗi ngày một khỏe mạnh, tươi tốt, làm ra những hạt thóc mẩy căng như hạt chanh. Còn cỏ thì lười nhát, chỉ thích ăn chơi lêu lỏng suốt ngày, chẳng thích làm gì, người nó ốm o gầy còm. Nó chẳng bao giờ làm ra được cái hạt có ích cho con người. Tuy vậy, cỏ và lúa vẫn đi lại thăm nhau. Mỗi lần tới chơi với lúa, cỏ thường lén đi ban đêm, hay xin ăn hoặc lấy trộm thức ăn của lúa. Biết vậy nhưng thương cỏ, lúa không nỡ trách mắng hoặc xa lánh nó mà vẫn tìm lời khuyên nhủ ân cần. Nhưng cỏ chứng nào tật nấy. Nó vẫn lười nhát như xưa. Một hôm lúa làm cỗ mừng sinh nhật và mời cỏ ăn uống. Không còn giữ ý tứ gì. Khi no căng bụng, cỏ nằm lăn ra ngủ. Nó ngủ say xưa đến lúc ông mặt trời mọc. Rồi mặt trời đứng bóng nó vẫn chưa dậy. Đến xế chiều, cỏ mới cựa mình, mở mắt. Nhưng xấu hổ về tính lười nhát, tham ăn, cỏ không dám ra đường về nhà. Sợ mọi người chê cười, nó khẩn khoản xin ở lại nhà lúa. Lúa không hài lòng, nhưng vốn hiền lành và thương em, đành cứ để cho cỏ ở. Từ đấy, cỏ thích sống chung với lúa để đỡ khỏi làm việc mà vẫn có ăn. Nó lại sang cả hàng xóm tranh ăn với ngô, đậu, rau nữa. Vì thế, hễ thấy cỏ mọc lên là người ta lại nhổ vứt đi. Chẳng ai ưa cái tính lười nhát, ăn bám, phá hại của cỏ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-co-va-lua" }
Con Cò, con Công và con Vẹt
Ngày xửa, ngày xưa, trong khu rừng nọ có ba loài chim sống với nhau và yêu thương nhau hết mực. Đó là con cò, con công và con vẹt. Một hôm, có ba anh chàng rủ nhau vào rừng săn thú. Họ đi suốt cả ngày mà chẳng bắt được con nào, mãi đến chiều mới gặp được ba con chim nhỏ. Mỗi người bắt một con về nuôi, yêu thương chăm chút cho chúng được khoẻ mạnh. Cả ba thầm nghĩ: - Ta cố gắng nuôi và dạy nó múa hát rồi đem vào dâng vua lĩnh thưởng. Người nuôi công thì dạy công tập múa, tập chào theo hiệu lệnh. Con công vốn kém thông minh nên người bảo sao nó làm theo vậy. Người nuôi vẹt dạy vẹt học nói tiếng người. Con vẹt vốn dễ bảo, thông minh lại hay bắt chước nên nó học nói rất nhanh. Người nuôi cò định dạy cò theo ý mình. Nhưng cò vốn là con chim thông minh, khôn ngoan. Nó nghĩ: - Ta không nên làm như Công, như Vẹt. Vì nếu ta biết múa, biết hát thì suốt đời ta phải sống trong lồng. Mà ta yêu cuộc sống tự do ngoài cánh đồng kia hơn. Thế là nó ỳ ra, không chịu học gì cả, khi người dạy nó hát, múa, nó chỉ la lên duy nhất một câu - Krâ, krâ! Được một thời gian, hai người bạn rủ anh chàng nuôi cò vào cung vua. Anh chàng nuôi cò ngần ngại nhưng lại sợ bạn bè chê kém cỏi nên cũng đành ôm cò đi theo. Đến hoàng cung, họ ra mắt nhà vua và khoe rằng họ có những con chim biết ca hát nhảy múa. Nhà vua hỏi: - Con công biết làm gì? - Nó biết cúi chào vua và múa theo điệu nhạc. Nhà vua khen hay và quay sang hỏi người nuôi vẹt. Người này thưa: - Tâu bệ hạ! Con vẹt của hạ thần biết nói tiếng người. Nhà vua có thể hỏi và con vẹt có thể trả lời từng câu. Vua rất hài lòng để con vẹt sang bên cạnh và hỏi tiếp: - Thế con cò của nhà ngươi biết làm gì? - Tâu bệ hạ, thần đã tốn bao nhiêu công chăm sóc, dạy dỗ nó mà nó không chịu hiểu gì hết. Nó chỉ biết kêu mỗi câu "Krâ, Krâ" mà thôi. Con cò nghe chủ nói vậy liền kêu lên: - Krâ! Krâ! Nhà vua bật cười và ra lệnh cho lính hầu: - Hãy thả nó ra đi, nó ngu quá, không biết làm gì hết! Con cò bay lên điện của nhà vua và cất tiếng nói: - Tâu bệ hạ, tôi không hề ngu ngốc đâu. Con công, con vẹt làm theo lời chủ dạy học hát múa nên bị nhốt trong lồng, còn tôi không nghe theo nên bây giờ tôi đã được tự do bay đến nơi nào tôi muốn. Nhà vua nghe cò nói gật gù: - Đúng lắm, hay lắm! Quả là một con cò thông minh. Con cò vỗ cánh bay đi để lại sự ngẩn ngơ của hai người bạn ngu ngốc là vẹt và công.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-co-con-cong-va-con-vet" }
Sự tích câu nói Nhăn như khỉ
Ngày xưa, trong làng nọ, có một bà cụ già nuôi một đàn chó con, con nào con nấy bụ bẫm, xinh xắn và rất đáng yêu. Bà cụ rất yêu bầy chó của mình. Nhìn chúng đùa nghịch trong sân trông thật vui mắt. Trong đàn, có con cún vàng là nghịch ngợm hơn cả. Nó trêu bất cứ con vật nào mà nó gặp trong sân, trong vườn. Một hôm, chú cún vàng đang chọc ghẹo một con cóc thì cóc lủi vào bụi cỏ biến mất. Nháo nhác nhìn quanh, cún nhìn thấy có hai con khỉ đang mon men lại gần. Trong đầu thoáng nghĩ ra một trò nghịch mới, cún con giả vờ nhìn mãi lên cái tổ ong vò vẽ đang treo lơ lửng trên ngọn cây cao. Tò mò, hai con khỉ cũng nhìn lên và hỏi cún: - Anh cún ơi, trên cây có gì mà anh nhìn chăm chú thế? Cún con chỉ tổ ong và nói: - Các anh nhìn kìa, đấy là cái trống của ông nội tôi đấy. Cái trống đấy mà đánh thì nó kêu to lắm. Nghe cún vàng nói, hai con khỉ tỏ ý tò mò muốn đánh thử xem nó kêu to cỡ nào. Cún vàng giả vờ giật mình và chối đây đẩy: - Chết, không được đâu. Bây giờ các anh mà gõ trống, ông nội tôi biết tôi sẽ bị nhừ đòn đấy. Cún con càng từ chối, khỉ càng tò mò. Thấy khỉ bị mắc lừa, cún giả vờ dần dần xiêu lòng đồng ý. - Thôi được, nể các anh lắm đấy. Nhưng các anh phải chờ tôi đi trốn thì mới được đánh đấy nhé. Nếu không ông tôi nhìn thấy thì tôi chết nhừ đòn. Khi không nhìn thấy cún vàng đâu nữa, hai con khỉ trèo lên cây cao, cầm gậy nhằm thẳng tổ ong mà đánh. Tổ ong rơi bịch xuống đất. Lũ ong vò vẽ bay vụt ra tìm kẻ phá hoại. Chúng nhằm hai chú khỉ còn đang ngơ ngác trên cây đốt túi bụi. Đau quá, hai chú khỉ vội vã tụt xuống đất, cắm đầu cắm cổ chạy. Bầy ong bay vù vù đuổi theo thi nhau đốt vào mặt, vào lưng, vào chân tay con khỉ. Cùng đường, nó nhảy tùm xuống suối, lặn một hồi lâu. Chờ bầy ong bay đi xa chúng mới dám ngoi lên. Bị cún vàng lừa một vố hú hồn, khỉ bực tức rủ nhau quay trở lại tìm cún trả thù. Tìm mãi, chúng mới thấy cún con đang loay hoay bên cạnh một bụi cây đầy quả chín đỏ rực. Tính tò mò nổi lên, quên hết cơn giận, chúng muốn biết Cún đang làm gì. - Các anh không thấy sao, tôi đang canh vườn cho ông kẻo có con thú nào đi qua nó lại vặt hết những quả ngọt chín đỏ này. Nghe đến quả ngọt chín đỏ, hai con khỉ thèm rỏ rãi. Bụng đói cồn cào, chúng gạ gẫm - Anh cún ơi, hay là anh cho chúng tôi nếm mỗi người một quả đi. Ông anh sẽ không biết được đâu. - Các anh mỗi người chỉ được ăn một quả thôi nhé! - Đồng ý - Hai con khỉ đồng thanh trả lời. - Phải chờ tôi đi khỏi đã nhé! - Đồng ý - Hai con khỉ mừng rơn. Đợi cún vàng đi khuất, hai con khỉ tranh nhau hái một nắm quả chín đỏ rồi cho tất cả vào miệng nhai ngấu nghiến. Chúng hoảng hốt nhè ra, khạc nhổ nhưng đã muộn. Những quả chín đỏ đó là những quả ớt chín, chúng làm cho mồm miệng khỉ bỏng rát, nước mắt nước mũi giàn dụa, bụng dạ nóng như có ai cào. Mặt khỉ nhăn lại vì cay, và chúng vẫn cứ nhăn mặt đến tận bây giờ. Vì thế các cụ thường có câu rằng "Nhăn như khỉ" là vì thế.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cau-noi-nhan-nhu-khi" }
Kinh và Ba Na là anh em
Ngày xưa, khi loài người còn thưa thớt, có một nhà nọ có hai anh em trai. Xứ họ ở bằng phẳng, rộng thênh thang, quay đầu bốn phía đều thấy chân trời tròn vành vạnh như một vành nong. Còn phía mặt trời lên có cái hồ lớn ngày đêm gầm gừ như con hùm, con sói, nhưng tốt bụng vô kể, xin bao nhiêu muối cũng sẵn sàng cho. Nhà ấy cày ruộng và đánh cá. Một hôm người cha nấu rượu gạo uống, uống nhiều quá chẳng còn biết gì, thấy tỏng người nóng bứ bèn xé bỏ quần áo, dang tay dang chân nằm ngủ. Hai anh em đi cày về thấy thế, anh chạy đi tìm quần áo, còn em cứ khúc khích cười. Ông cụ tỉnh giấc, thấy con cười thì nạt bảo ngậm miệng. Không những không nín được, nó lại còn cười to to. Cha mắng, nó ôm bụng cười, cười ngặt nghẽo, cười rũ rượi. Cha đánh, nó vừa khóc vừa cười. Ông cụ giận quá, lột quần áo nó, đuổi đi. Người anh không dám can cha, bèn đi tìm cô em dâu để lo liệu. Cô gái ở trong lùm cây, đang nhặt củi khô và ca hát líu lo với con chim chìa vôi nửa đen nửa trắng. Nghe tin chồng bị đuổi đi, cô chạy theo tay anh chỉ, tất tả chạy về hướng mặt trời lặn, đuổi theo chồng. Nhưng đi mãi vẫn không nhìn thấy lưng chồng. Đêm đến leo lên cây ngủ, sáng ra lại đi. Đi đã nhiều lắm, đã lâu lắm. Bàn tay cô có bao nhiêu ngón thì trăng lặn bấy nhiêu lần mà dấu chân chồng vẫn chưa giẫm lên được. Càng đi, càng phải leo nhiều dốc núi dựng sừng sững như vách, giăng tầng tầng lớp lớp như muốn đội nhau lên tận mây xanh. Dây rừng níu kéo tay chân, gai dại đâm xuyên da thịt, xé áo váy, đêm đêm mắt hổ sáng như đèn, vượn hú, rắn trườn rùng rợn. Hoảng quá, cô gái cứ vừa đi vừa gọi to: – Chàng ơi! Chàng! Chàng à! Không ai trả lời. Nhưng thần núi thương tình, đưa tiếng cô lọt vào kẽ đá, chen qua lá cây, theo gió lên ngàn, theo suối xuống nội. Vách đá tiếp nhận, đưa lên phía trước và một hôm đưa lọt tai chồng. Người chồng dừng lại đón vợ. Hai vợ chồng gặp nhau, vui mừng khôn kể xiết. Vợ cởi áo đưa chồng đóng khố, rồi họ dắt tay nhau tìm đất phát rẫy gieo lúa, trồng ngô. Về sau ho sinh con đẻ cháu gọi là người Ba Na hiện nay. Còn người anh ở đồng bằng, sinh con đẻ cháu là người Kinh.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/kinh-va-ba-na-la-anh-em" }
Con Vẹt hay bắt chước
Khi mùa xuân về, các giống chim và thú vật rủ nhau tới rừng hoa mở hội. Nào Voi, Gấu, Hổ, Lợn lòi… trổ tài thi khỏe. Nào Khỉ, Vượn, Sóc… đua tranh nhau trèo leo. Và các giống chim thì khoe tiếng hót hay. Trong bầy chim có chú Vẹt áo sặc sỡ. Chú ta cũng hăm hở đi thi. Từ lâu, Vẹt nổi tiếng là một chú chim có nhiều giọng hót. Vẹt hí hửng tin chắc rằng giải nhất nhất định sẽ về tay chú ta. Trên đường đi, Vẹt tung tăng nghênh trời, ngắm suối. Gặp cô Bướm rừng sặc sỡ, Vẹt hỏi: – Này cô Bướm, xem như tôi về dự hội năm nay, có nhất được không? Bướm đang mải nhởn nhơ, nghe câu được, câu chăng, tưởng Vẹt hỏi có phải hội mùa xuân là vui nhất không, liền đáp: – Nhất đấy! Nhất đấy! Vẹt ta khoái lắm, bay vù một chặp. Đi được một quãng nữa, Vẹt gặp Vượn. Thấy Vượn đang tập hú, Vẹt nhướn cổ hú luôn. Vượn giật mình nhìn ra, thấy Vẹt, liền khen: – Cậu hú khá lắm. Y như tớ! Vẹt có vẻ không bằng lòng với lời khen ấy (người ta hú hay hơn chứ!). Đi quãng nữa, nhác thấy Ếch bì bõm nhảy ra, Vẹt “ộp ộp” luôn. Ếch tưởng có bạn cùng loài, cố giương mắt nên nhìn, chỉ thấy Vẹt. Vẹt cười ré lên, bay vù mất. Đến giữa rừng, gặp Vàng Anh đang khổ công luyện giọng. Vẹt tỏ ra thương hại. Cặp Sáo líu lo hót tập, Vẹt chẳng lạ gì thứ tiếng ríu ran ấy. Vẹt cậy mình có cái tài muốn kêu, muốn hót bất cứ thứ tiếng gì, chỉ một tí là được ngay. Nó yên trí nó là kẻ vô địch của bất cứ loài chim nào… *** Vào cuộc thi, giám khảo Chim khuyên và Ếch ộp mời các bạn đến dự thi hãy hăng hái ghi tên biểu diễn trước, Ếch vừa đặt loa lên mép, chưa kịp gọi thì Vịt đã quang quác vào đầu tiên, khiến cho ai nấy đều giật cả mình. Thấy vậy, Vẹt ta liền nhảy vào, hót lên một chuỗi âm thanh líu ríu. Chim Khuyên định chấm cho Vẹt một điểm thì Liếu điểu bay tới, nhận đó là tiếng hót của mình. Vẹt tỏ vẻ không cần, vươn cổ gáy vang, Gà Trống đập cánh kêu: – Đấy là giọng hót của tôi chứ! Vẹt tức mình, huýt lên lanh lảnh. Chích Chòe đứng bên cạnh nhảy tanh tách tới chỗ ban giám khảo, nói ngay: – Ơ! Sao lại hót tiếng hót của tôi? Giám khảo Ếch bảo Vẹt hãy hót bằng tiếng hót của mình thì hơn. Vẹt càng bực bội, nhướn cổ hú một hồi rõ to. Ai dè, Vượn nhào ngay tới, tóm lấy Vẹt: – Sao lại hú tiếng của người ta? Vẹt hoảng hốt bay lên, để lại trong tay Vượn một cái lông đuôi. Nó luống cuống, không làm sao nghĩ ra được tiếng hót của mình nữa. Từ xưa đến nay nó có tập hót và luyện giọng bao giờ đâu? Nó chỉ quen bắt chước, chỉ hót theo tiếng hót của người khác mà không hiểu gì cả.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-vet-hay-bat-chuoc" }
Người chết đẻ con
Ngày xưa, có người đàn bà nhà quê sắp đến ngày sinh đẻ thì nhuốm phải bệnh nặng. Biết mình không thể sống nổi để cho con ra đời, lúc hấp hối, thiếu phụ ứa nước mắt nhìn chồng, tay sờ soạng lên bụng chửa, nghẹn ngào sẽ nói: “Còn con… con của chúng ta…” rồi tắt thở. Người chồng đau đớn vật vã, khóc lóc thảm thiết, thương tiếc vợ chết tức tưởi với đứa con còn trong bụng mẹ. Sau khi chôn cất thiếu phụ được mấy hôm, bà lão bán quán thong manh ở gốc cây đa cánh đồng làng thấy có một người đàn bà dáng quen quen đến mua mấy đồng tiền mật. Người đàn bà mua mật đi rồi, đứa cháu gái bà lão bán hàng mới run sợ nói cho bà hay là nó trông người khách vừa rồi giống hệt thiếu phụ mới chết hôm nào. Qua ngày hôm sau, cũng vào lúc xế chiều, thiếu phụ trở lại, cũng lại hỏi mua mật. Bà hàng tò mò hỏi, thiếu phụ trả lời mua cho con dại vì mình không có sữa. Thiếu phụ đi rồi, đứa cháu gái theo lời bà nom theo thì thấy đi về phía ngôi mả mới chôn trên gò cánh đồng. Bà lão bán hàng bèn tin cho người chồng hay. Hôm sau, người chồng đến chờ sẵn ở quán. Vào lúc chiều tối, thấy vợ từ ngoài đồng đến, anh ta đâm xổ ra chặn hỏi, nhưng thiếu phụ không nói năng gì, cúi gầm mặt lại chạy trốn. Người chồng đuổi theo thì không thấy bóng vợ đâu nữa. Anh ta khóc lóc, đau đớn điên cuồng chạy ra ôm lấy mả vợ mà kêu gào rên rỉ, rồi ngừng lặng như muốn ngất đi. Bỗng nhiên anh nghe mang máng như có tiếng trẻ con từ dưới mả vẳng lên. Anh áp tai vào mả nghe tiếng oe oe càng rõ. Người chồng liền chạy về nhà lấy thuổng, cuốc ra đào mả vợ. Cạy nắp hòm ra thì thấy một đứa con trai đang yếu ớt cựa quậy nằm trên bụng mẹ, bên mép hài nhi còn dính vết mật. Thi thể người vợ cứng lạnh, bụng chửa đã xẹp xuống, xác vẫn nguyên vẹn. Người chồng trông nét mặt vợ thanh thản như mỉm cười, khác hẳn vẻ nhăn nhó đau thương hôm chết. Anh bế đứa con trai về nhà, được lối xóm đóng lại quan tài và đắp lại mả vợ. Thằng bé lớn lên như các đứa trẻ khác, còn mẹ nó thì không ai thấy lại đâu nữa. Người chồng nhiều phen trở lại mả cùng đi quanh ngôi quán bà lão ở cánh đồng để rình gặp cũng không thấy vợ hiện ra nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/nguoi-chet-de-con" }
Chàng Chôm
Ngày xưa, mường Vong có khu rừng Bái Mân. Giữa rừng là làng người ở. Nương rẫy lúa ngô hơi tốt. Ngô lúa đang xanh tươi, thì có trận lũ to ập đến. Mưa suốt bảy ngày tám đêm, hạt mưa bằng quả cà quả khế. Nước ngập cây cỏ, rừng luồng, nước tràn lên ruộng lúa, rẫy ngô. Người Bái Mân đành kéo nhau lên núi thật cao để sinh sống. Khi mưa tạnh, nước rút đi, ngô, lúa, sắn, khoai cũng thi nhau thối mục. Suối trước làng bị lũ lấp vùi không còn dấu vết. Người làng bỏ đi. Bái Mân vắng vẻ bóng người. Riêng hai mẹ con Mân ở lại làng Bái Mân, vẫn làm nương, làm ruộng, trồng sắn nuôi thân. Rẫy của Mân phát quang hôm nay, thì ngày mai cây cối lại um tùm như chưa hề có ai đụng dao, đụng rìu đến. Mẹ bảo Mân bỏ đám rẫy ấy đi để làm đám khác. Mân tiếc nơi này tốt đất nên cứ phát bừa, Mân chặt cây đến cùn dao, nhưng đâu cũng vào đấy, cây cối vừa đổ rạp xuống, cây cối lại đứng lên xanh um trở lại. Mẹ bảo Mân: – Nhà ta thiếu tay đàn ông, nên rẫy khó phát nên. Mân lắc đầu nói: – Tay con cũng khỏe như tay đàn ông. Nói rồi Mân lại nhìn lên cây đa, ở ngọn cây đa này có một con chôm[1] to như cột nhà. Lúc đầu hai mẹ con lo con chôm biết phá rẫy, cắn người, mãi sau thấy hôm nào chôm cũng nằm ì trên cành cây thì Mân và mẹ cũng yên lòng. Một hôm hai mẹ con lên đến chân rẫy thì văng vẳng có tiếng người đuổi nai phá lúa. Đi hẳn vào nương và gọi xem là ai thì chẳng còn nghe tiếng đuổi nai đâu nữa, tìm mãi thì thấy có dấu chân người in trên đất rẫy. Con chôm thì vẫn nằm lặng trên cành cây đa. Khi về nhà Mân nhìn các ống luồng đựng nước ở nhà lều thì ống nào cũng đầy ắp nước, mặc dù trời không hề có một giọt mưa. Đêm ấy, Mân nằm mơ thấy có người hò hét đào gốc, đẵn cây. Sáng ra, Mân lên rẫy nhìn thấy đám rẫy được dọn sạch quang, chỉ có nền đất màu mỡ chờ tra hạt. Mân về kể lại với mẹ. Hai mẹ con đều lấy làm lạ. Ai đấy hẳn là thương cảnh nghèo của mẹ con nàng mà đến giúp. Mẹ Mân bảo: “Người ấy nếu là con trai thì mẹ gả Mân cho đấy!”. Tối đến, hai mẹ con trở về thì lại thêm điều mới lạ nữa. Túp lều sàn của họ không cánh mà bay, thay vào chỗ nền đó là một tòa nhà cao cửa rộng. Cũng lúc ấy, ở trên nương, con chôm liền hóa ra một chàng trai khôi ngô, tuấn tú, áo quần trắng toát. Chàng dẫn một đoàn người ra nương phát cây, đào gốc. Chẳng bao lâu rẫy đã sạch, nương thêm rộng. Làm xong việc, chàng áo trắng đi lại gốc đa, chàng vẫy tay mấy cái thì đoàn người kia cũng biến đi, còn chàng chui ngay vào vỏ con chôm, leo lăn nằm ở cành cây đa. Hai mẹ con Mân trở lên nương, chỉ kịp nhìn thấy người con trai quần áo trắng toát chui vào vỏ con chôm, họ càng lo sợ. Hai mẹ con lại bảo nhau ngồi rình trong bụi. Quả nhiên, được một lúc thì con chôm cựa mình, vỏ chôm tách làm hai và chàng trai nọ lại bước ra, tụt xuống đất. Chàng cất vỏ chôm vào rễ đa rồi mới ra rẫy làm việc. Chờ cho chàng Chôm ra đến giữa nương, Mân liền chạy ra gốc đa cất ngay vỏ chôm của chàng đi. Nghe tiếng động, chàng Chôm giật mình quay lại thì thấy hai mẹ con Mân đón đường. Không biến được vào vỏ nữa, chàng bèn phải nói rõ ý muốn lấy Mân làm vợ cho mẹ Mân biết. Mẹ Mân gật đầu ưng thuận. Từ ngày có chàng Chôm làm rể, nhà Mân mỗi ngày một giàu. Ngày ngày vợ chồng Chôm lên rẫy, mẹ Mân ở nhà chăm nom cửa nhà Mân hỏi chồng: – Bây giờ nhà ta no đủ rồi, mà không có người làng thì vắng vẻ lắm. Chàng chưa trả lời, Mân nói tiếp: Từ năm lũ vùi mất con suốt, dân làng mới bỏ đi nơi khác chàng ạ. Chàng Chôm hiểu ý, nói: – Nàng đừng lo, anh sẽ đào giếng khơi phai để dắt nước về làng, lúc ấy chúng ta sẽ gọi dân làng trở về. Ngay tối hôm ấy, vợ chồng Chôm lên chỗ suối bị vùi lấp. Chàng ngắt một lá sa nhân, cuộn tròn làm loa kèn, rồi thổi lên mấy tiếng “toe toe” thì có hàng trăm người to lớn hiện ra, tiến đến trước mặt vợ chồng Chôm. Họ cùng vợ chồng Chôm khơi xong lòng suối. Nước từ ngọn núi Bái Mân ập về. Vợ chồng Chôm lại làm thêm phai dẫn nước vào ruộng để cày cấy. Lúa ngô cứ mùa mùa thi nhau về với vợ chồng Chôm. Tin đồn nhà Mân giàu có loan khắp vùng. Dân làng Bái Mân kéo nhau về xem. Họ thấy lúa ngô xanh tốt, suối Bái Mân đã lại có dòng nước chảy. Mân nói với dân làng: Đất ta tốt, nước ta ngọt, làm ăn dễ dàng giàu có, mời dân làng ta trở về Bái Mân thôi. Nghe lời Mân, mấy ngày sau làng Bái Mân lại có nhiều người, nhiều trâu bò, gà lợn. Vợ chồng Mân giúp họ dựng nhà làm cửa, giúp giống ngô, giống lúa. Dân làng ai cũng khen mẹ Mân kén được rể hiền lành, tài giỏi, khen Mân là cô gái khéo tay hay nết, đã giúp bản làng Bái Mân làm nên bát cơm bông lúa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-chom" }
Tiếng trống Mê Linh
Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em đứng đầu đất Mê Linh. Đã từ lâu, Mê Linh rộn rã tiếng trống. Đó là những chiếc trống lớn đúc toàn bằng đồng, rực rỡ sắc vàng, rền vang những âm thanh hùng tráng. Đó cũng là vậy quý có từ thời các vua Hùng bắt đầu dựng nước. Bỗng giặc Hán tràn sang xâm lược nước ta. Đám quân mạnh nhất của chúng đóng ngay trên đất Mê Linh. Giáo sắt, gươm thép của giặc tua tủa khắp nơi. Tướng giặc tên là Tô Định, rất tham lam, tàn bạo. Quân lính của hắn cầm gươm giáo lăm lăm trong tay để vơ vét sản vật của đất Mê Linh, lùa ép dân Mê Linh vào rừng săn tê giác, đào núi tìm mỏ quý, khiến bao người chết mất xác. Thế là trên đất Mê Linh tắt lịm tiếng trống đồng. Trưng Trắc đau lòng trước cảnh đất nước bị giày xéo, muôn dân bị lầm than. Bà bàn với chồng là Thi Sách mưu việc khởi nghĩa, đuổi giặc ra khỏi đất nước. Trưng Nhị cũng hăm hở cùng chị ngày đêm lo việc luyện rèn dân binh. Trống đồng Mê Linh sắp sửa rung lên những hiệu lệnh ra quân. Giữa lúc ấy tướng giặc Tô Định dỏng tai nghe ngóng tình hình. Hắn rắp tâm dập tắt cuộc nổi dậy ngay từ khi mới nhen nhóm. Lập tức hắn cho người mời Thi Sách đến rồi trở mặt thét quân lính bắt trói ông về tội chống lại chúng. Hắn ra lệnh chém đầu ngay để đe dọa những người khác. Không ngờ vừa nghe tin dữ, lòng người trên khắp nước Việt bừng bừng căm giận. Hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị lại đã từ lâu nung nấu hận thù, quyết định ra lệnh khởi nghĩa. Trống đồng gầm lên như sấm. Những tiếng trống ầm ầm giục giã mọi người cầm vũ khí đứng lên giết giặc. Dân Mê Linh và cả nước ùn ùn kéo theo hau chị em bà Trưng. Giáo đồng, rìu đồng vung lên sáng lóa. Giặc Hán cuống cuồng tháo chạy khắp nơi. Tướng giặc Tô Định vô cùng hoảng sợ phải cắt râu, thay áo, giả làm người dân thường để lẩn trốn. Tiếng trống đồng vang vang đuổi theo bọn giặc. Chẳng mấy chốc, đất nước sạch bóng quân thù. Thế là Hai Bà Trưng đã giành lại non sông, trả xong thù nhà. Quê hương xanh tươi trở lại. Tiếng trống đồng lại dõng dạc rền vang trên đất Mê Linh và trên khắp non sông hùng vĩ của nước Việt ta.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tieng-trong-me-linh" }
Sự tích mùa gặt
Tục truyền ngày x­ưa khi vua Hùng mới dựng nư­ớc, ven các con sông Thao, sông Đà, sông Lô đất đai màu mỡ, cây cối tốt t­ươi. Cư­ dân Văn Lang vẽ chàm vào ng­ười xuống đồng bắt cá về ăn. Vùng đồng kẻ Gáp, kẻ Vầy cá nhiều vô kể, ăn cá mãi cũng chán. Các cụ già làng thư­ờng thấy trên những bãi bồi hàng năm nở lên những vạt cây tốt nhanh, lá giống lá mía, thân như­ thân lau, nở từng bụi sum suê, bông trĩu, quả to, có quả như­ cái thuyền con, khi quả chín rụng xuống đất, chim sóc cứ mổ mà ăn không xuể. Các già làng liền rủ nhau lấy rìu bổ ăn thử, ăn vào đến đâu thấy dễ chịu đến đấy, nếu đem cho vào ống nứa đốt như­ nấu khoai mài, ăn thấy càng thơm ngon. Thấy vậy, dân làng rủ nhau đi nhặt về để dành ăn vào mùa đông rét m­ướt. Như­ng có năm cây vẫn tốt, lúc ra hoa trời nắng bông lại lép kẹp, bông thì to như­ng cứ giơ thẳng lên trời như­ những mũi mác, cả làng cả bản tha hồ đốt cây trầm h­ương gọi là vía, gọi hồn hạt cũng không to, bông vàng không trĩu xuống. Vua Hùng thấy vậy, cùng các già làng tìm một ngọn núi cao im lặng trèo lên trên đỉnh, đốt h­ương khấn vái bốn phư­ơng mong Long Quân về phù hộ. Vua Hùng cùng các già làng cầu khấn mãi từ sáng đến hết đêm. Sáng hôm sau, bỗng nhiên trời nổi sấm sét, mư­a từ đâu như­ trút n­ước xuống, rồi từ trong đám m­ưa có vị thần nói to lên rằng: - Từ nay trở đi cứ sáng mồng một Tết, nhà nào cũng phải quét sạch nhà cửa cổng ngõ sân bãi đến giờ "dần" sẽ có lúa thần về mới đ­ược ăn, bằng trái ý là lúa bay đi. Tan cơn m­ưa, vua Hùng và các già làng như­ tỉnh giấc mộng, nhìn thấy ngay tr­ước mắt mình một hạt lúa thần thật to bằng chiếc thuyền con. Từ đó về sau năm nào cũng vậy, cứ khoảng tháng bảy, tháng tám khi n­ước các con sông rút đi là tất cả c­ư dân Văn Lang, cùng với vua Hùng nghe theo lời thần dạy, ra những bãi bồi ven sông cày bừa vun xới, chăm chút nâng niu những cây lúa thần. Từ đấy năm nào lúa cũng về đều đặn, dân c­ư no lành, vui mừng ca hát, nhảy múa. Như­ng bỗng một năm có hai vợ chồng nhà quan lang còn trẻ, chị vợ ngủ tr­ưa, khi mở mắt ra những tia sáng của thần trời đã le lói chiếu qua khe liếp nhà, mới vội vàng cầm chổi đi quét sân. Chị vợ đang quét thì lúa tới giờ đã lăn từ ngoài bãi bồi lăn về. Hạt lúa thật to, thật đẹp, nh­ưng cổng nhà rác quá, lúa không vào đ­ược, chị vợ sợ chồng mắng mới quay ra mắng lúa: - Lúa gì mà chư­a đến giờ đã mò về. Lúa giận rồi bỏ đi. Trư­ớc khi đi, lúa còn bảo: - Nhà chị l­ười quá, từ nay cứ lấy ngoèo tre, l­ưỡi sắt cắt từng bông chứ đừng hòng ta lăn về cho mà ăn nữa. Chị vợ hối hận chạy theo van nài, nói thế nào cũng không đ­ược. Lúa thần bay đi, c­ư dân Văn Lang lại lao đao vì thiếu cái ăn. Vua Hùng lại phải cùng các già làng lên đỉnh núi cầu khấn trời đất, thắp hư­ơng suốt ngày đêm, gọi vía lúa, lúa thần vẫn không về. Còn những cây lúa hằng năm vẫn chăm sóc ở bãi bồi ven sông thì lá bé đi, bông nhỏ lại chỉ bằng phần nghìn, phần vạn hạt lúa thần và phải lấy cái ngoèo tre, đóng một miếng sắt (gọi là liềm) đi cắt từng bông một mang về. Từ đó, hằng năm cứ sắp đến mùa lúa nở, c­ư dân Văn Lang và vua Hùng lại cầu khấn thần lúa. Và mỗi khi n­ước sông rút đi, lại ra sức chăm sóc những cây lúa ven sông rồi mang ngoèo tre, lưỡi sắt đi cắt từng bông lúa mang về.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-mua-gat" }
Chàng ngốc và gã bợm
Ngày xưa có một anh chàng, nhà giàu có nhưng phải cái ngu ngốc thì không ai bằng. Một hôm, nghe nói trong vùng có đám hội lớn mở luôn mười đêm ngày, hắn vội vã thắng bộ cánh rất sang: áo gấm, quần lụa, khăn điều, nón lông, giày hạ. Hắn lại cưỡi một con ngựa có yên khấu trang sức đắt tiền. Dọc đường gặp ai hắn cũng hỏi: - Ông (hay bà) xem tôi có đẹp hay không? - Và hắn lấy làm đắc chí khi thấy người ta trầm trồ khen ngợi mình. Lúc đến dãy quán quanh đám hội, hắn gặp một tay đại bợm đang tránh ngựa đứng bên vệ đường. Cũng như mấy lần trước, hắn dừng lại hỏi: - Ông xem tôi có đẹp hay không? Hắn không ngờ người kia lại trả lời: - Đẹp thì đẹp đấy, nhưng chưa biết cách ăn mặc cho ra lối nhà quan. Nghe nói thế, hắn bèn dừng ngựa, cầu khẩn: - Ông vui lòng bảo giúp tôi một tí, tôi sẽ không quên ơn ông. Bợm ta lớn tiếng: - Thế thì hãy xuống ngựa đi! Cởi áo quần ngoài ra đưa đây ta bày vẽ cho. Ngốc ta không ngần ngại, lần lượt cởi mọi thứ đang mặc trao cho hắn. Còn tên bợm mỗi lần mặc một cái vào người, hắn lại nói: - Hãy nhìn đây! Như thế này mới là lối nhà quan. Cuối cùng hắn nắm lấy cương ngựa, vừa trèo lên yên, vừa nói: - Mở mắt ra mà nhìn cho kỹ cách người nhà quan họ cưỡi ngựa! Hắn cho ngựa tế quanh hai vòng, rồi sau đó ra roi cho ngựa tếch thẳng. Ngốc ta vùng chạy theo la làng. Nhưng chẳng có một ai tin lời hắn cả vì không thể nào có một tên cướp lại đủ thì giờ thắng bộ cánh đã cướp được vào người một cách chững chạc như thế kia. Thế là anh chàng ngốc mất hết cả ngựa nghẽo và bộ cánh, đành khoác bộ quần áo tàng của tên bợm bỏ lại mà kéo bộ trở về nhà. Nghe hắn kể chuyện, vợ hắn mắng cho một trận. Qua hôm sau, người đàn bà bắt chồng phải đưa mình đến đám hội tìm cho ra tên bợm. Nhưng nàng dặn chồng hễ bắt gặp nó thì đừng có hô hoán, chỉ ra hiệu cho mình biết mặt là đủ. Lại nói chuyện tên bợm từ hôm được ngựa và áo quần thì đắc chí, cho là dầu kẻ bị mất có thấy hắn cũng không thể làm gì được nữa. Bởi vậy hắn ung dung cưỡi ngựa và mặc đồ lề vào, đi dự hội. Khi gặp tên bợm, người đàn bà theo hút không rời. Nàng đã có chủ ý mang sẵn trong người một gói, trong đó có một chiếc hoa tai, một vòng đeo tay bằng vàng. Rồi nàng đứng chực sẵn ở một cái giếng: chờ lúc tên bợm sắp đi qua, lên tiếng khóc rưng rức. Nghe tiếng khóc, hắn bỗng để ý đến nàng, vội dừng ngựa lại hỏi: - Tại sao lại khóc?. Nàng giơ cho hắn xem những đồ trang sức bằng vàng lóng lánh, rồi đáp: - Trời ơi! Khổ thân tôi quá! Tôi buột tay để rơi xuống giếng một chiếc hoa tai và một chiếc vòng. Biết làm sao bây giờ?. Rồi nàng nói tiếp: - Chồng tôi mà biết thì nó làm tội tôi đến khổ. Chàng có biết lội làm ơn mò giúp cho tôi một tí. Rồi tôi xin trả ơn chàng!. Bợm ta thấy nàng đẹp, lại đánh hơi thấy việc có thể kiếm chác được, bèn xuống ngựa rồi cởi quần áo ngoài ra. Sắp lội xuống giếng, hắn còn hỏi tên người đàn bà. Nàng bảo hắn: - Chồng tôi là Ngộ Văn Quá, tôi là Lại Thị Coi cũng ở miền này cả thôi! Đáp xong, chờ lúc hắn ta hụp xuống nước, người đàn bà lập tức vớ lấy tất cả áo quần của tên bợm rồi nhảy lên ngựa phi nước đại về nhà. Bợm vừa nhoi lên thấy mất hút cả người lẫn ngựa, chỉ còn biết hai tay che lấy hạ bộ rồi chạy theo ngựa kêu van inh ỏi: - Ôi làng nước! Bắt hộ tên Ngộ Quá, Lại Coi! Nghe thế, những người đi đường xúm lại mắng cho hắn một trận. Hắn biết dại đành câm miệng lủi về nhà.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-ngoc-va-ga-bom" }
Sự tích con trâu
Vào thuở ban sơ, Ngọc Hoàng, vị vua trên thiên đình đã tạo nên trái đất và để cho loài người cùng muông thú chung sống cùng nhau. Ngọc Hoàng khá hài lòng khi hai loài sống hòa hợp với nhau và đã sai một vị thần xuống trần gian gieo trồng lúa, đậu và một vài loại ngũ cốc khác để các loài có thức ăn. Ngọc Hoàng để các loại hạt giống vào trong một cái túi bằng vàng và căn dặn vị thần gieo chúng dọc theo quả đất. Sau đó, ngài đưa cho vị thần thêm một chiếc túi khác có chứa các hạt cỏ dại dành cho các loài thú và bảo ông ta gieo chúng vào những nơi mà hạt giống của loài người không nảy mầm. Ngọc Hoàng tin rằng tất cả các thần dân mà mình đã tạo nên sẽ không bao giờ bị đói nhờ vào các hạt giống này. Vâng lệnh Ngọc Hoàng, vị thần mang theo hai chiếc túi vàng xuống trần gian. Vị thần rất trung thành nhưng cũng rất lười biếng. Và mặc dù vị thần thường gặp phải rắc rối do tính lười biếng của mình nhưng Ngọc Hoàng vẫn thường bỏ qua cho ông ta vì ngài có một trái tim rất nhân hậu. Khi vừa xuống trần gian, vị thần lập tức rải hạt giống xuống một vùng đất rộng lớn. Ông ta nghĩ nếu hoàn thành nhiệm vụ sớm chừng nào thì ông ta càng được trở về thiên đình sớm chừng đó. Nhưng ngạc nhiên thay, cỏ dại bắt đầu mọc lên nhanh chóng từ những nơi vị thần vừa rải hạt giống. Ông ta lập tức nhận ra mình đã lấy hạt giống nhầm túi và nhanh chóng sửa sai bằng cách rải lại các hạt giống ngũ cốc từ chiếc túi kia. Trong lúc vội vã, vị thần đã làm vỡ các hạt giống mà Ngọc Hoàng đã cố tình tạo ra với kích thước thật lớn để cây trồng có thể mọc lên dễ dàng thành những mảnh nhỏ. Ông ta lập tức gieo các hạt giống nhỏ xíu này xuống các vùng đất mà cỏ dại đã mọc lên. Tuy nhiên, đã quá muộn để vị thần có thể sửa chữa được lỗi lầm của mình. Cỏ dại mọc nhanh hơn các loại ngũ cốc và hấp thu hết lượng nước, không khí và ánh mặt trời dùng để nuôi dưỡng ngũ cốc. Nhận thấy không còn cách nào để khắc phục được tình trạng này nữa, vị thần quyết định trở về trời. Do e ngại Ngọc Hoàng, ông ta đã không hé một lời nào về việc mình đã làm. Không lâu sau, loài người bắt đầu kêu ca về nạn đói. Họ thắc mắc với Ngọc Hoàng tại sao các loài vật lại có một vùng đồng cỏ rộng lớn trong khi con người chỉ có một chút ít ngũ cốc. Họ cũng phàn nàn quá trình gieo trồng hết sức mệt nhọc và mất nhiều thời gian bởi các loại hạt giống quá bé. Bị quấy rầy ầm ĩ, Ngọc Hoàng đã truy hỏi nguyên nhân gây nên những lời than phiền của loài người. Sau khi biết được những tai hại gây nên bởi vị thần, Ngọc Hoàng đã quở trách ông ta về thói hấp tấp, lười biếng mình. Mặc dù Ngọc Hoàng có một trái tim bao dung nhưng những thiệt hại mà vị thần gây ra lần này quả thật quá lớn. Ngài đã quyết định trừng phạt vị thần để ông ta biết được lỗi lầm của mình. Sau khi biến vị thần thành một con trâu, Ngọc Hoàng đã nói: “Sai lầm của ngươi đã làm cho cỏ dại mọc lên nhiều hơn các loại ngũ cốc dinh dưỡng. Ngươi buộc phải ăn hết chúng vì chúng chẳng có ích gì cho loài người cả. Bên cạnh đó, bởi vì ngươi khiến cho loài người phải lao động vất vả hơn, ngươi sẽ phải ở lại trần gian vĩnh viễn để giúp những người nông dân cày cấy trên cánh đồng.” Thậm chí cho đến nay, trâu vẫn bị đưa ra xa nếu người ta thấy nó đi vào các ruộng lúa. Tuy nhiên, trâu vẫn được coi trọng vì nó đã từng phục vụ Ngọc Hoàng vào thời xa xưa. Mặc dù hình dáng không được đáng yêu lắm nhưng trâu chính là một vị thần khốn khổ bị trừng phạt mãi mãi do một lỗi lầm nhất thời.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-trau" }
Chiếc thùng thần diệu
Ngày xưa, có một ông nông dân rất nghèo, một hôm ông đang đào đất thì thấy một cái thùng rất to, lúc đó vô tình ông đánh rơi một hạt dẻ vào trong thùng, lập tức ông đếm được 81 hạt dẻ. Ngẫm nghĩ một lúc, ông lấy một đồng tiền vàng bỏ vào thùng, thật ngạc nhiên có 81 đồng tiền vàng hiện ra. Mọi vật ông bỏ vào đều thêm được 81 thứ giống hệt như thế. Rất đỗi vui mừng, ông nghĩ bụng từ nay mình sẽ trở nên giầu có, không phải chịu cực khổ như trước nữa. Tên điền chủ biết chuyện người nông dân có cái thùng thần diệu liền tuyên bố: - Cái thùng này được tìm trên đất của ta thì nó phải là của ta. Và hắn lấy đi cái thùng của người nông dân. Nhưng quan huyện cũng biết được lại đến nói với tên điền chủ: - Cái thùng này đã được tìm ra trên mảnh đất nằm dưới quyền cai quản của ta. Vì thế nó phải là của ta. Thế là hắn cho quân lính tới mang chiếc thùng này về. Tin về chiếc thùng thần diệu đến tai nhà vua, ông ta cũng tuyên bố: - Mỗi tấc đất ở đất nước này đều thuộc quyền cai trị của ta như vậy chiếc thùng đó phải là của ta! Rồi cũng ra lệnh cho quân lính tới đem chiếc thùng về. Khi lấy được chiếc thùng thần diệu nhà vua rất vui mừng và tăng thêm mọi vật quý báu trong cung điện: vàng bạc, ngọc ngà.... Cung điện như một núi vàng núi bạc to lớn và lộng lẫy. Nhưng nhà vua rất băn khoăn muốn biết có điều gì bí ẩn và kỳ diệu trong chiếc thùng đó. Thế là ông ta nhảy vào chiếc thùng nhưng chẳng thấy gì cả. Khi ông leo ra khỏi chiếc thùng thì một điều kỳ lạ xảy ra: Có đến 81 người giống hệt nhà vua đang đứng trước mặt ông. Người nào cũng đòi quyền hành, dành giật ngai vàng của nhau. Mỗi người chiếm một phần đất rồi chém giết lẫn nhau. Cả đất nước chìm trong chiến tranh. Lúc này người nông dân mới than thở, hối tiếc vì đã tìm ra chiếc thùng thần diệu ấy.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chiec-thung-than-dieu" }
Thần cuống
Ngày xưa, tại xã Khúc Phụ, tổng Thổ Bình, châu Chiêm Hóa, thuộc tỉnh Tuyên Quang, có một bà lão góa không con, ở thôn Mô Cuống, mỗi ngày thường đến thác Cuống bắt tôm cá về ăn. Một hôm bà lão trông thấy một quả trứng màu trắng, to gần bằng trứng gà, lấy làm sợ bèn lượm vứt đi xa. Song luôn hai ba lần, bà lão lại gặp quả trứng đó ở mấy nơi khác, bèn đem về cho gà ấp. Rồi một tháng sau, quả trứng nở ra một con vật giống hình con lươn, bà lão đem bỏ vào một chĩnh nước. Con vật chóng lớn, bà lão đưa qua một cái vại, rồi nó lớn lên chật vại, bà đem thả nó xuống suối Mô Cuống, mới hay nó là con giao long. Con vật sắc trắng này thuộc loài thủy tộc, song thỉnh thoảng lại hóa thành người nói được. Nó gọi bà lão là mẹ nuôi và bắt tôm cá về nuôi bà. Vì thế mỗi lần có cúng giỗ, bà lão đến bên giòng thác gọi: - Cuống, Cuống! Rồi thấy nó trồi đầu lên mặt nước mới bảo: - Ngày mai ở nhà có giỗ, con bắt cho mẹ một ít cá. Giao long lập tức vâng lời, bắt nhiều cá để lên bờ cho mẹ nuôi đến lấy về. Có bao nhiêu người ăn, số cá giao long cho vẫn đủ, và luôn luôn như vậy. Về sau, có một con giao long khác, sắc đen, ở giòng thác lớn Sa Hương thuộc xã Miên Hương, cách đó mấy dặm, ngược giòng thác Cuống đến đánh nhau với giao long trắng để rồi chiếm lấy nơi này. Cuộc giao chiến kéo dài đã ba ngày, chưa rõ con nào thắng, bỗng thấy con giao long trắng chạy về nhà cầu cứu bà lão đến giòng thác để giúp nó một tay, làm theo lời nó dặn: - Lúc nào thấy thân hình đen (tức là giao long đen) trồi lên mặt nước thì mẹ lấy dao mà chém. Bà lão nghe lời con nuôi mang theo một con dao dài mài sắc, đến hôm sau, vào giờ ngọ, ra bờ thác, trông thấy hai con giao long đang đánh nhau, quấy đục cả mặt nước. bà cầm con dao chờ sẵn khi thấy thân hình đen nổi lên mặt nước, liền chém xuống thật mạnh, chẳng may lại trúng nhằm con giao long trắng. Con vật hiện lên rên xiết với bà lão, nói: - Mẹ ơi, mẹ đã chém lầm vào bụng con rồi. Số mệnh con phải chịu như vậy, xin mẹ đừng tiếc thương con. Nói xong rồi nó biến mất. Ba ngày sau xác nó nổi lên ngay chỗ ấy, dân trong vùng trông thấy vớt đem về chôn ở cánh đồng trước nhà bà lão. Ngày nay mộ con giao long vẫn còn, người ta gọi là mộ Thần Cuống, được sùng bái coi như một vị thần, mỗi năm vào dịp tháng hai, dân ở bốn xã vùng này đều kéo nhau đến cúng lễ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/than-cuong" }
Sự tích hoa Linh Lan
Thời xa xưa có một chàng Gù bất hạnh, sống đơn độc, không biết cha mẹ mình là ai, anh em thân thuộc cũng không có, chẳng ai coi chàng là bạn. Ðối với tình yêu, chàng chỉ biết qua sách vở. Chàng mang máng hiểu rằng tình yêu cũng giống như một hơi thở nhẹ luôn ve vuốt trái tim, hoặc như ngọn lửa thiêu cháy nó, rằng tình yêu có thể nâng con người lên chín tầng mây, và cũng có thể quăng họ xuống địa ngục. Chàng Gù còn tin ràng dù là hơi thở nhẹ hay sức nóng của lửa cũng không thể làm lay chuyển được con tim đau đớn đang đập loạn lên của chàng. Ai có thể đem lòng yêu một con người như vậy, một khi trên đời này còn có biết bao chàng trai tuấn tú và khôn ngoan khác? Vả lại, làm sao chàng có thể yêu được một người khác giới khi chàng mang trái tim như vậy trong lồng ngực? Không, trái tim chàng chỉ biết căm ghét, đố kỵ; đôi môi chàng chỉ quen mấp máy một số từ thô thiển; cặp mắt ti hí của chàng không nhìn rõ được, dù là một tia nắng dịu dàng hay một ánh trăng mỏng mảnh; đôi mắt ấy lúc nào cũng chỉ nhìn xuống và chỉ thấy toàn những thứ thối tha, nhơ nhuốc; cái mũi nhọn hoắt của chàng không thể phân biệt được những điều kỳ diệu trong hương thơm của các loài hoa, mà chỉ biết đánh hơi được mùi hôi thối của xác súc vật và lá cây rữa nát. Chàng bị người đời xem thường và xa lánh. Thế rồi một hôm, thật tình cờ, chàng nhìn thấy công chúa Rôda(1) đang dạo chơi trên công viên. Mọi người dừng lại, ngả mũ chào nàng, chỉ có chàng là cứ lóng nga lóng ngóng, cặp mắt hấp háy, không sao hiểu được trên đời này lại có thể có một người đẹp nhường kia. Cặp má hồng, đôi mắt nâu, đôi môi đỏ thắm cùng với tấm thân tròn lẳn tràn đầy sức sống của nàng, khiến những ai được gặp nàng cũng đều cảm thấy lòng thanh thản, nhẹ nhõm. Nhiều cụ già đã vượt qua những chặng đường xa lắc, lắm chông gai để mong được gặp nàng, dù chỉ là một lần, và lúc ra về thấy đời như trẻ lại. Rôda đáp lại sự ngưỡng mộ của mọi người bằng một nụ cười thật cởi mở và chân tình. Chỉ có một người không cất tiếng chào nàng, không ngả mũ, đó là chàng Gù gầy gò, xấu xí đứng bên vệ đường nheo mắt nhìn công chúa đang nhẹ nhàng bước. Ðối với Rôda, đấy là cả một sự lạ và rất khác thường. Nàng bèn dừng lại và nhìn sâu và cặp mắt không mấy thiện chí của chàng Gù. Con người khốn khó này sao cô đơn và đáng thương làm vậy! Rôda cảm thấy thương chàng vô hạn, và đã ban tặng cho chàng nụ cười ấm áp nhất của mình. Chỉ sau khoảnh khắc ấy thôi, cuộc đời chàng Gù bỗng thay đổi hẳn! Bây giờ, cặp mắt chàng luôn ngước nhìn lên, chàng đã thấy những bông hoa Tử Ðinh Hương tím nhạt và trắng xoá khoe sắc màu sặc sỡ, những bông hoa Sơn Trà đỏ tươi đang nở hết cỡ, và những đám cây tuyệt diệu có những tán lá lung linh giọt mặt trời. Những hơi gió nhẹ đem theo những làn hương kỳ diệu cứ phả mãi vào mặt chàng! Và đây, ngay bên mép đường, những bông hoa tim tím đã mọc lên. Vì sao những bông hoa nhỏ xíu này lại có đủ sức cảm hoá làm vui lòng người qua đường như vậy? Chàng Gù bối rối, không thể hiểu được vì sao cặp mắt nhìn cũng như đôi tai nghe của chàng lại thay đổi như vậy, và sao bỗng nhiên giờ đây chàng lại biết yêu vẻ đẹp của thế giới quanh chàng. Biết hỏi ai bây giờ? Chàng tự hỏi. – Hãy hỏi ta đây này! – trái tim đáp. – Ôi, trái tim của ta, mi chỉ là kẻ bất hạnh, lúc nào cũng u tối như màn đêm vậy, mi có thể giải đáp được gì cho ta, chàng Gù cằn nhằn. – Ta đang cảm thấy đời thật là vui, bởi lẽ lúc này, ta mới hiểu cái gì, đã khiến hoa phải nở, giục giã chim phải hót; ta hiểu rằng cái gì đã mở cặp mắt và tai nghe của chàng! – Trái tim điềm tĩnh nói. – Vậy là cái gì? Hãy nói ta nghe chàng Gù dò hỏi. – Cái đó là tình yêu. Tình yêu vừa dịu dàng vừa khắc nghiệt, vừa êm đềm vừa sóng gió, vừa ấm áp vừa dữ dội! Chính vì chàng đang yêu! Chàng đã yêu công chúa Rôda! – Yêu công chúa Rôda ư? – Chàng Gù sợ hãi – Ta mà dám cả gan phải lòng công chúa Rôda! – Ai có thể ngăn cấm chàng yêu công chúa Rôda được? – Trái tim tranh cãi với chàng – Sáng sáng, chàng hãy đến đây, như mọi người, chàng hãy chào nàng đi. Chàng Gù nghe lời khuyên của chàng trái tim. Ngày lại ngày, chàng đến gặp Rôda, khi nàng đến gần, chàng cúi đầu xuống chào vẻ lịch thiệp. Nàng đi rồi, gương mặt chàng như được ve vuốt bởi một hơi thở nhẹ. Và thời kỳ tuyệt diệu nhất trong đời chàng đã tới. Vì sao chàng lại có đủ sức mạnh để tàn đêm, tận ngày ngồi đập từng tảng đá? Vì sao chàng lại có thể cao giọng hát đua cùng Sơn Ca và Hoạ Mi? Chàng Gù không hiểu Sơn Ca và Hoạ Mi hót gì, còn chàng, chàng chỉ hát về Rôda, về sắc đẹp của nàng và về tình yêu của mình thôi. Chàng Gù bất hạnh đâu hiểu được rằng, con bão bất thần có thể đổ sập xuống đầu chàng bất kỳ lúc nào! Quả nhiên, cơn bão đã bất thần ập đến thật. ấy là vào một buổi sáng, khi chàng tới công viên để được ngắm công chúa, để được hưởng không khí trong lành; chàng đã thấy thành phố được trang hoàng lộng lẫy, phố xá đông nghẹt những người. Người nào cũng mang nhạc cụ, chỉ có một cô gái nhỏ nhắn là cầm trên tay một cái chuông con: Cô gái ấy tên là Maia bất hạnh, chuyên nghề chăn súc vật. Nàng không tìm đâu được đàn bà và sáo, nàng đành lấy cái chuông trên cổ một con dê là nhạc cụ. Nàng muốn bộc lộ, niềm vui của mình trong ngày hội trang trọng này. Lúc đó chàng Gù hỏi một người gặp trên đường xem thành phố được trang hoàng đẹp như vậy để đón mừng ai, và vì sao phố xá lại đông người đến thế. Người qua đường đáp: – Chàng từ đâu đến mà không biết hôm nay là ngày công chúa của chúng tôi sẽ đi lấy chồng? – Công chúa ư? Công chúa nào? – Chàng Gù lúng túng lắp bắp. – Chẳng nhẽ chàng không biết thành phố chúng tôi chỉ có một công chúa, đó là nàng Rôda sao? Chàng Gù khuỵu ngay xuống đống đá lạnh lẽo, nhưng rồi chàng vụt đứng dậy, bởi vì chàng có cảm giác như vừa bị ngã vào một bếp lửa đang cháy hừng hực. Như kẻ bị bỏng lửa, chàng chạy như bay về phía công viên, nơi mà ngày nào chàng cũng được gặp Rôda. – Rôda của ta! Rôda của ta! Chàng vừa hét to vừa cảm thấy trái tim mình đang bốc lên một ngọn lửa hừng hực và những giọt nước mắt chảy thành suối trên hai gò má chàng cũng không thể dập tắt nổi. Dân chúng hoan hỉ đón chào Công Chúa và Hoàng Tử xứ lạ; cặp trai tài gái sắc ấy đang ban phát cho đám thần dân của họ những nụ cười ấm áp. Say sưa với hạnh phúc, họ đâu có ngạc nhiên khi thấy một chàng Gù lách qua đám đông tới quỳ mọp dưới chân công chúa Rôda, miệng lảm nhảm cầu xin: – Rôda ơi, em là của ta cơ mà! Hãy tống cỏ kẻ lạ mặt này đi và hãy theo ta! – Thằng điên! Dân chúng hét to – Mi không biết thế nào là liêm sỉ khi xuất hiện trước mặt nàng công chúa Rôda trong bộ quần áo rách rưới thế kia ư? – Ta đã tìm được người ta yêu. – Tốt nhất là nên cầu hôn cái chổi ấy! Ðám đông giận dữ đứng che lấp hẳn chàng Gù. Dù có răn đe, dù có nhạo báng cũng không làm chàng tỉnh lại được. Ngọn lửa tình yêu đã khiến chàng dần trở nên mù quáng, mất hết lý trí. Chàng rút con dao găm từ trong vạt áo ra và đâm thẳng vào trái tim công chúa. Mọi người cúi gằm mặt xuống, vẻ đau buồn. Khi ngước mắt lên, ai nấy đều ngạc nhiên trước một tiếng kêu sửng sốt. Từ mảnh đất thấm đầy máu, mọc lên một bông hoa thanh cao có những cái cánh nhỏ màu đỏ lửa toả hương thơm. Nhưng nếu ai cố tình chạm vào nó thì sẽ bị những cái gai sắc như mũi dao đâm vào tay đau nhói. – Ðây là Rôda của chúng ta, – Dân chúng bàn tán – ngay cả sau khi đã chết rồi, nàng vẫn gửi lại cho chúng ta niềm vui sáng láng. Theo luật pháp xứ này, hung thủ giết người tình của mình chỉ về ghen tuông sẽ bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, do vậy chàng Gù phải lưu đàylên một vùng núi hẻo lánh, kéo theo sau là những cơn mưa đá và những lời nguyền rủa. Từ đó không ai thấy chàng Gù nữa. Mãi đến mùa Xuân năm sau, Maia, cô gái chăn cừu nhỏ nhắn trong lúc đi tìm chú dê con bị lạc bầy, đã phát hiện dưới chân núi một trái tim bị nứt nẻ. Cô gái bỗng nhớ tới chàng Gù bất hạnh đã chết vì tình yêu điên dại, nàng bèn cúi xuống trước trái tim ta vỡ và khóc nức nở, vì nàng cũng là kẻ đơn độc, không được yêu. Thật là kỳ lạ, những giọt nước mắt của Maia cứ thấm sâu vào tảng đá, và ngay trên chỗ đó mọc lên hai bông hoa, một bông có những cái cánh nho nhỏ màu hồng quấn quanh thân cành giống như những trái tim nhỏ xíu bị nứt nẻ; còn bông kia thì nở ra những cái chuông nhỏ màu trắng treo lửng lẳng trên cành hệt như những giọt nước mắt trong suốt. Sau này, con người đã đem những bông hoa đó vào trồng trong vườn và gọi bông hoa màu hồng là hoa Trái Tim Tan Vỡ, còn bông hoa màu trắng là loài hoa Linh Lan
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-linh-lan" }
Cá Bống thần
Ngày xửa, ngày xưa, có hai anh em mồ côi, tính tình trái ngược hoàn toàn. Người em chăm chỉ, hiền lành, thật thà còn người anh gian ngoan lại tham lam độc ác. Anh ta vơ vét hết tất cả những gì bố mẹ để lại, chẳng cho người em bất cứ thứ gì. Hàng ngày, người em cứ phải vào rừng dùng que để đào củ mài, củ nâu, xuống khe bắt tôm, bắt tép để ăn. Đêm , anh lại trở về nhà người anh ngủ cùng với trâu với lợn. Một hôm, người anh rủ người em ra sông tát cá. Người anh bắt người em be bờ, đắp đập, tát nước, còn mình thì bắt hết cá, chẳng để xót lại một con nào. Người em vừa mệt, vừa buồn. Bỗng có một con cá bống nhỏ, bơi dưới chân nười em và cất tiếng nói: - Anh hãy bắt tôi đem về nuôi đi. Người em mừng rỡ vớt con cá bống lên, đem về nhà bỏ vào bát nuôi, nâng niu như trẻ nhỏ. Cá bống lớn rất nhanh. Qua ngày đầu tiên nó đã to chật cả cái bát, người em phải thả nó và chậu. Ngày hôm sau nó đã lớn chật chậu. Người em phải đắp cái vũng to bằng nửa cái sân nhà cho cá vùng vẫy. Hai ngày sau cá lớn chật vũng. Người em đắp luôn một đoạn khe ở chỗ khuất và thả cá xuống. Chỉ vài ngày sau, cá lớn chật khe, to như một con trâu đực. Lúc này nó nói: - Tôi đã lớn rồi, tôi với anh hãy kết tình anh em đi. Chúng ta đi xuôi dòng kênh này một chuyến cho vui. Người em bằng lòng, thịt gà, thổi cơm trắng mang đi. Cứ đến bữa ăn, người em xé thịt và cơm trắng cho cá ăn, còn mình thì chỉ ăn xương gà với cơm cháy. Trời nổi mây to gió lớn, người em vô cùng lo sợ. Cá nói: - Không sao đâu, trời sẽ không mưa. Anh hãy leo lên cây cao. Nếu thấy mây kéo ùn phía dưới, anh quay mặt về phía đó giả buồn rầu. Nếu mây ùn về phía trên nước, anh cười thật to là được. Người em nghe theo, trèo mãi lên ngọn cây cao. Khi mây ùn ùn phía dưới ngọn nước người em mặt ủ rũ buồn rầu. Lúc sau, thấy mây ùn ùn phía trên, anh cười vang. Tiếng cười dội vào vách núi vang như sấm. Bỗng anh nghe thấy tiếng gầm rú dưới khe. Quay lại anh nhìn thấy cá bống đã giết chết con thuồng luồng khổng lồ. Cá gọi: - Người anh em ơi, hãy xuống mổ bụng con thuồng luồng mà lấy của cải đem về. Người em làm theo và lấy được rất nhiều vàng bạc của cải. Cá bống và người em trở về. Về đến nhà người em kể lại câu chuyện cho anh nghe và chia đôi số của cải lấy được cho anh. Lòng tham nổi lên, người anh không chịu nhận số của cải mà người em cho, hắn đòi đi một chuyến cùng với cá. Người em miễn cưỡng cho anh mượn cá và dặn không được để cho cá chết. Thế là người anh tham lam ra đi. Anh ta cũng được cá bống cho đi dọc khe chơi. Nhưng anh ta tham lam quá, anh ta ăn hết thịt gà và cho cá ăn xương, ăn lòng. Đến một khúc khe, trời cũng nổi cơn giông. Anh tham lam mừng quá, hỏi cá nên làm gì. Cá dặn anh ta như dặn người em. Nhưng vì mừng quá nghe vội nghe vàng nên anh ta không nhớ rõ lời cá dặn. Đáng lẽ hắn phải buồn ủ rũ thì hắn lại cười to, khi cần cười to thì hắn lại buồn ủ rũ. Con thuồng luồng vùng lên mà cá chưa kịp chuẩn bị. Thế là nó cắn chết cá bống. Người anh vô cùng tức giận đập vào đầu cá, trở về nhà. Về đến nhà, người em mừng rỡ chạy ra hỏi anh có lấy được nhiều của cải không, người anh cau mặt quát: - Mày nói láo. Cá của mày chết ngoài khe kia kìa. Người em nghe tin cá chết vội chạy một mạch ra ngoài khe. Đến nơi thấy xác cá cứng đờ, người em than khóc mãi. Hồn cá bống hiện về nói thoảng qua tai anh: - Người anh em đừng khóc nữa. Hãy chặt đầu tôi mang về chôn giữa sân, tôi sẽ có cách giúp được anh. Người em liền chặt đầu cá đem về chôn ở sân như lời cá dặn. Mấy ngày sau ở chỗ đó mọc lên cây tre rất cao. Người em ra gốc tre nói: - Tre định giúp ta cái gì thì nói đi. Cây tre nói: - Khi nào nghe gió trên về, hãy nói: "áo sống ta đâu", sẽ có áo đẹp. Khi nào thấy gió dưới thì kêu: "Bạc nén, nồi đồng của ta đâu". Lúc đó sẽ có nhiều bạc nén, nồi đồng. Người em làm theo lời cá dặn nên được rất nhiều vàng bạc, áo quần. Người anh nổi máu tham chạy ra gốc tre. Thấy gió trên thổi hắn nói: - Áo sống của ta đâu? Tức thì bao nhiêu rẻ rách trên trời rơi xuống. Thấy gió dưới nổi lên hắn thét: - Bạc nén, nồi đồng của ta đâu? Trên ngọn tre bao nhiêu sọ người, xương bò rơi xuống đầu anh tham lam, làm anh ta đau điếng. Tức giận, anh ta chặt luôn cây tre và về nhà mắng người em: - Mày nói láo. Cây tre của mày là ma quỷ, tao chặt rồi. Người em chạy ra chỗ cây tre than khóc. Gốc tre nói với anh: - Anh hãy đốt tôi đi lấy tro vào rừng. Thấy vết chân con thú nào anh hãy rải tro lên và đi theo, con thú sẽ chết, anh tha hồ có thịt ăn. Người em làm theo và mang về rất nhiều thịt thú rừng. Người anh tham lam nghe tin, giật số tro còn lại của người em đem ra rẫy. Hắn rải tro khắp nơi, thấy dấu chân chuột hắn cũng rải. Thấy dấu chân người hắn cũng rải vì nghi có kẻ trộm vào rẫy. Rải xong hắn hý hửng về nhà toan quét dọn nhà cửa để đi nhặt cọp, heo về. Về đến nhà, hắn thấy vợ và đàn con lăn ra chết giữa nhà. Hoảng hốt, hắn chạy ra rẫy. Té ra, những dấu chân hắn nghi là trộm lại chính là dấu chân của vợ con hắn. Hắn như điên như dại lấy nốt số tro còn lại rải lung tung, rải lên cả dấu chân của mình. Thế là chưa kịp về đến nhà hắn đã lăn ra chết. Người em nghe tin anh chết, vẫn lo lắng ma chay cho anh cho trọn tình trọn nghĩa. Từ đó người em sống yên ổn làm ăn cùng bà con xóm giềng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ca-bong-than" }
Chuyện Rùa và Khỉ
Ngày xưa, có một bác rùa già sống cùng vợ và gia đình trong một cái hồ lớn, bao quanh hồ là một khu rừng rộng lớn, trong rừng có rất nhiều thú hoang. Đặc biệt là loài khỉ, chúng di chuyển thành đàn với số lượng lớn theo bờ hồ. Vào một ngày nọ, bác rùa ra khỏi hồ nước và đi dạo giữa những tán cây mọc gần mép nước. Chợt bác thấy đói và tìm thấy có một cây dừa sai quả gần đấy. Bằng mọi sự cố gắng một cách vụng về, bác rùa cũng không thể trèo lên trên cây dừa hái quả được. Rất thất vọng, định bỏ cuộc, chợt bác trông thấy có một con khỉ to đang ngồi giữa những đám lá của cây dừa. Con khỉ quan sát sự nỗ lực leo lên cây dừa của bác rùa. Thương tình nó bẻ hai trái dừa ném xuống cho bác rùa. Bác rùa vui vẻ ăn với lòng biết ơn. Bấy giờ hai con vật bắt chuyện với nhau và chẳng mấy chốc trở nên thân thiết. Khỉ dẫn bác rùa vào sâu trong rừng và chỉ cho bác thấy cái hang ấm áp mà nó vừa tìm được. Bác rùa thích thú với những gì nhìn thấy, bác hài lòng vứi người bạn khỉ đến mức ở lại trong rừng vài ngày, ban ngày đi dạo, tối về ngủ cùng khỉ trong hang. Ở nhà vợ bác rùa càng ngày càng lo lắng về sự vắng mặt lâu ngày của chồng. Thím rùa sai một đứa con của mình đi tìm xem cha nó đang ở đâu và ông ấy sống ra sao. Thế là chú rùa con bơi vào bờ, sau một hồi tìm kiếm chú thấy cha mình ở gần một cái hang. - Cha ơi, mẹ sai con đi tìm cha xem cha sống như thế nào - Chú nói. - Ồ, cha vẫn ổn, con trai ạ - Rùa cha đáp - Nói với mẹ là đừng lo lắng gì cho cha, cha đang sống rất vui vẻ, vài ngày nữa cha sẽ về. Rùa con quay trở lại hồ nước và kể cho mẹ nghe những gì đang xảy ra. Thím rùa nghe xong cảm thấy không hài lòng trước cách cư xử của chồng mình. Thím rùa muốn chồng mình quay trở về nhà với vợ con ngay lập tức. Vì thế thím rùa lại sai cậu con trai mình quay trở lại chỗ cha cậu với lời nhắn: Mẹ đang bị bệnh nặng và thầy thuốc nói rằng chỉ có trái tim một con khỉ mới có thể chữa khỏi bệnh được. Do đó, bác rùa phải trở về ngay lập tức và mang theo một con khỉ. Rùa con lại đi tìm cha một lần nữa. Gặp cha chú nhắn lại lời của mẹ. Nghe tin giữ, bác rùa rất lo lắng và tự trách mình bỏ nhà đi lâu quá, không để ý chăm sóc vợ con để bây giờ vợ mình bị bệnh nặng. Bác báo cho người bạn khỉ là mình phải quay về nhà ngay lập tức và mời chú khỉ về nhà chơi vài ngày. Chú khỉ không nghi ngờ gì và vui vẻ nhận lời. Thế nhưng khi biết là mình phải xuống hồ nước thì khỉ ta e ngại, chú rất sợ nước và cũng chả biết bơi. - Đừng lo về điều ấy - Bác rùa nói - Bạn cứ trèo lên lưng tôi, tôi sẽ trở anh qua hồ. Thế là khỉ trèo lên lưng rùa và bác rùa bơi về nhà. Trên đường đi bác rùa vui vẻ kể chuyện cho khỉ nghe, kể về bệnh tình của vợ. Trong lúc cao hứng, bác dại dột buột miệng rằng phương thức duy nhất để cứu vợ mình khỏi bệnh đấy chính là một trái tim của một con khỉ. Nghe vậy, chú khỉ rất sợ hãi và nhận thấy rằng mình đang bị dẫn vào một cái bẫy. Nhưng rất nhanh chóng lấy lại được bình tĩnh, chú khỉ nghĩ ra cách giải nguy. Chú khỉ nói với bác rùa: - Anh rùa thân mến, tôi rất đau lòng nghe tin về bệnh tình của vợ anh, nhưng nếu bệnh tình của chị nhà tệ như thế thì tôi nghĩ rằng một trái tim khỉ sẽ không đủ. Theo tôi phải có thêm hai, ba trái tim khỉ thì việc chạy chữa mới có hiệu quả. Nếu anh muốn, tôi có thể dễ dàng gọi vài chú khỉ nữa trong số bạn bè của tôi để cùng theo về nhà anh. Bác rùa nghĩ thế thì còn gì bằng nên đồng ý. Cả hai bơi trở lại bờ. Ngay khi lên được bờ khô ráo, chú khỉ nhảy khỏi lưng rùa thật nhanh và trong nháy mắt đã trèo lên ngọn cây cao nhất mà chú có thể tìm thấy. Từ trên cao chú khỉ nói vọng xuống: - Ông là loại bạn bè tử tế quá nhỉ. Ông mời tôi đến nhà ông chơi để giết tôi và lấy trái tim tôi để chữa bệnh cho mụ vợ độc ác của ông. Ông trả ơn tôi cho tất cả những gì tôi làm cho ông trong khu rừng này như vậy phải không? Nhưng ông đã không thể làm được điều ông muốn bởi vì ông chỉ là một con rùa vô ơn bạc nghĩa và ngu ngốc, đần độn. Đừng có mơ quay về với trái tim của tôi và của những người bạn tôi. Hãy thử xem ông sẽ làm được gì để cứu mụ vợ xấu xa của ông. Nghe những lời chửi rủa này, bác rùa nổi giận đùng đùng và vài lần cố gắng trèo lên cây để chừng trị chú khỉ, nhưng không thể trèo được. Bác đành bỏ cuộc nhưng trong bụng vẫn quyết tâm bắt được một con khỉ để đem về chữa bệnh cho vợ. Thế là bác rùa nấp mình dưới hồ nước chờ đến tối, bác bơi nhẹ nhàng và bờ và tiến về phía cái hang nơi mà bác và khỉ đã chung sống. Bác dấu mình trong một góc tối chờ cho chú khỉ vào hang. Tuy nhiên chú khỉ thừa thông minh để không bị mắc vào cái bẫy đơn giản như thế. Như thường lệ, đến giờ ngủ, chú trở về hang nhìn vào trong kêu lớn: - Ồ, cái hang thật tuyệt, cái hang thật tuyệt! Sau vài phút im lặng, chú khỉ lại la lớn một lần nữa: - Ồ, cái hang thật tuyệt, cái hang thật tuyệt! Bác rùa vẫn nằm im trong hang, không có biểu hiện gì. Chú khỉ giả vờ nói với mình nhưng chủ yếu là cho bác rùa nghe thấy: - Lạ nhỉ, lạ nhỉ! Mọi khi luôn có tiếng vọng lại ở trong hang kia mà, sao tối nay mình lại không nghe thấy một tiếng vọng nhỏ nào nhỉ.Chắc có điều không ổn đây. Và chú khỉ giả vờ lại la lớn hơn: ồ, cái hang thật tuyệt, cái hang thật tuyệt! Ở trong hang, bác rùa nghe rõ những điều khỉ nói. Bác xuẩn ngốc nghĩ rằng nếu bác giả vờ làm tiếng vọng lại thì chú khỉ sẽ tin và vào hang như thường lệ. Do vậy từ trong góc hang tối bác nói vọng ra: - Ồ, cái hang thật tuyệt, cái hang thật tuyệt! Nghe thấy thế, chú khỉ tủm tỉm cười một mình vì tính ngốc nghếch của bác rùa và đi tìm chỗ ngủ khác ở trong rừng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chuyen-rua-va-khi" }
Sự tích cây thuốc phiện
Ngày xửa ngày xưa, có vua Đen có tài "bang giao" rất tài giỏi bằng cách cho con gái mình làm dâu các nươc láng giềng. Vua Đen có ba người con gái, đặt tên là công chúa Cả, công chúa Hai và công chúa Ba. Công chúa Hai và Ba là người xinh đẹp nên đã có chồng là hoàng tử nước lân bang và sống rất giàu sang sung sướng. Riêng công chúa Cả, người đen đủi, xấu xí, tính tình lại khác thường, nên vẫn chưa ai nhòm ngó tới, thấy con gái mình như vậy, vua Đen đang ngày đêm lo nghĩ làm sao gả được chồng cho con gái mà lại thâu tóm được cả thiên hạ về tay ông ta cai quản, bèn nẩy ra một kế. Vua Đen cho người phao tin rằng ông có người công chúa Cả, tài trí song toàn, nhan sắc tuyệt mỹ không chê vào đâu được; rất nhiều bậc cao sang quyền quý đến ngỏ ý, nhưng nàng chưa ưng thuận một ai. Ở một nước làng giềng nọ, nơi mà vua Đen ngày đêm thèm thuồng dòm ngó, có một hoàng tử khôi ngô tuấn tú, tài trí hơn người, ngày đêm mải mê lo giúp vua cha trị vì đất nước sao cho thịnh vượng đến quên cả việc lo nghĩ về vợ con. Một hôm, có tin đồn về công chủa cả từ nước vua Đen tới. Nay hoàng tử mà sang cầu hôn, hẳn công chúa sẽ ưng thuận ngay; nhất là đức vua Đen, người sẽ rất lấy làm sung sướng, bởi từ lâu, đức vua đã có ý muốn kết tình giao bang để cùng nhau sống trong cảnh thái bình. Hoàng tử nghe được tin đó tưởng thật, chàng mừng lắm. Lại được vua cha ưng thuận, chàng liền cho sắm sửa lễ vật. Đúng ngày hẹn, chàng cùng đoàn người, ngựa chở lễ vật quý báu sang nước vua Đen cầu hôn. Vua Đen thấy hoàng tử nước láng giềng đến cầu hôn vậy, ông mừng thầm khôn xiết, thân ra tận cửa đón phò mã tương lai. Nhà vua cho mở yến tiệc linh đình cốt để cho chàng thấy sự mến tài, hiếu sự bang giao của mình; sau nữa là ràng buộc hoàng tử ngay từ đầu, làm cho hoàng tử sau này dù có thấy con gái nhà vua đen đủi, xấu xí cũng không nỡ lòng nào mà từ chối. Phía hoàng tử, ngồi yến tiệc linh đình đó nhưng chàng vẫn nóng ruột muốn gặp công chúa cả: Không hiểu sao đức vua vẫn chưa cho công chúa ra mắt để chàng sớm được thấy mặt? Cho mãi đến ngày thứ ba, khi chỉ còn một mình hoàng tử trong lầu son, công chúa Cả mới xuất hiện. Hoàng tử tưởng mình trông lầm ai, chàng dụi mắt mấy lần, cuối cùng chàng hiểu ra đó là người mà chàng định kết tóc se tơ thì chàng giật mình, ù té chạy khỏi lầu. Không còn nghĩ gì đến ra mắt vua Đen thưa lại câu chuyện nữa, chàng bỏ của, kéo tất cả quân hầu thẳng một mạch về nước. Vua Đen biết chuyện, ông ta rận lắm, mắt trợn trừng, nghiến răng ken két, hồi lâu mới mắng công chúa Cả: - Mày làm hỏng hết việc của tao! Chài mồi lấy được nó, có phải tao sẽ thâu tóm đất nước nó về tay tao một cách dễ dàng không? Rồi nó cũng thuộc của riêng mày chứ ai, đồ ngu! Còn công chúa Cả, biết người mình đen đủi xấu xí, nên khi yến tiệc, nàng đã đứng sau rèm che trộm nhìn ra, chứ chưa ra mắt vội. Thấy hoàng tử là chàng trai tuấn tú, cử chỉ khoan thai, ăn nói đĩnh đạc, nàng đã hồi hộp sung sướng đến ngây ngất. Nhưng khi giáp mặt, thấy hoàng tử tay dụi mắt trợn ngược vùng bỏ chạy, công chúa sầm mặt ngay lại và và trở nên căm ghét hoàng tử không đến tột cùng. Bây giờ bị vua cha mắng nhiếc vậy, công chúa càng căm uất. Nàng thề trước vua cha rằng: - Nếu không lấy được hoàng tử, con xin đầu thai xuống làm kiếp hoa quả và hoa quả ấy phải làm cho cha con hoàng tử phải đê mê ngây ngất không dứt tình nổi với công chúa! Nghe đến đây, lòng tham của vua Đen nổi lên, ông ta hét lên ra lệnh: - Mày phải làm cho cả đất nước cha con nó... à mà không, mày phải làm cho tất cả mọi người, nghe chưa, làm cho tất cả mọi người trên mặt đất này mê muội cả đi, mê muội tất cả, để tao thâu tóm, tao cai quản tất cả, nghe chưa!... Ngày tháng trôi qua, lời nguyền của công chúa Cả, lệnh của vua Đen giao cho công chúa đã dần dần thành sự thật. Một hôm, có một người tiều phu thuộc đất hoàng tử, cạnh nước vua Đen, đi rừng bỗng bắt gặp một thứ cây lạ, lá tròn bầu, xanh đậm, cây cao bằng đầu gối. Cây ấy ra hoa, những cánh hoa màu hồng, cánh xòe ra nom thật đẹp. Lạ lùng, vừa tò mò, người tiều phu hái một nắm hoa và ngọn. Người tiều phu ấy đem về bắc lên chảo xào, hương thơm tỏa ra ngào ngạt. Đưa lên miệng nếm thử, cha cha, ngon chưa từng thấy. Vị ngon này chỉ đáng miệng vua ăn, chứ không đến lượt mình. Nghĩ vậy, người tiều phu đi hái được lưng giỏ cả hoa và ngọn thứ cây đó đem dâng nhà vua. Vua sai người sào nấu nếm thử, cũng thốt lên khen ngon lạ lùng. Rồi vua truyền: - Thứ cây ấy, nhà ngươi hãy theo dõi xem nó ra sao nhé! Y lời vua, người tiều phu về tiếp tục theo dõi xem thứ cây ấy nó thế nào. Ít lâu sau, thứ cây ấy ra quả, quả thấy có nhựa. Nhựa ấy ông đem nấu đặc sệt thành cao. Nhựa bắt lửa, khói bốc lên ngoằn ngoèo như rắn xanh. Khói ấy tỏa đến đâu, tất thảy mọi người đều ngơ ngác, hít lấy hít để muốn hút ngay lấy. Người tiều phu vê nhựa cho vào nõ điếu hút thử, bỗng khắp người mọi đường gân, thớ thịt chạy rần rật, đê mê, ngây ngất quên hết cả đất trời. Lạ lùng, người tiều phu đem thứ nhựa đó lên dâng vua. Đức vua cho gọi hoàng tử đến cùng xem. Hoàng tử xem xét hồi lâu cục nhựa, hỏi cặn kẽ người tiều phu, rồi phán: - Cứ như nhà ngươi nói, thứ nhựa này ai ngửi mùi cũng muốn hút, khi hút vào rồi thì mê mệt với nó không dứt bỏ ra được. Vậy hẳn nó là thứ thuốc độc. Nhà ngươi về nói với mọi người không được hút nó nữa, nó làm cho con người mê muội cả đi, nghe chưa! Người tiều phu vâng lời về nói với mọi người và cũng không hút nữa. Song gió cứ đưa, phấn hoa cứ bay đi khắp đồi núi, làm cho thứ cây lạ đó mọc lên, đưa đi mùi hương hoa thật là cám dỗ. Có người đã trót hút và trở thành nghiện ngập không dứt ra nổi nữa. Đó chính là cây thuốc phiện mà công chúa Cả do không chiếm nổi hoàng tử đã hóa mình thành vậy. Đúng là thứ làm cho mọi người khi ngửi mùi thấy rất thèm hút, và khi đã hút vào thì mắc nghiện, cứ thế đê mê ngây ngất, quên hết cả vợ con, bán sạch cửa nhà đi chỉ vì cơn thèm thuốc nó bốc lên. Số đông người thấy vậy đã bảo nhau phá thứ cây đó đi, không được hút nữa. Còn bên nước vua Đen, ông ta ngày đêm trông chờ cha con nước láng giềng và cả loài người mê muội vì thuốc phiện để ông tung quân đi thu phục cai quản để làm giàu. Nhưng ông chờ mãi, chờ mãi cho đến khi tắt thở, người ta đem chôn, ông vẫn không nhắm được mắt, mà thiên hạ ngày càng tỉnh táo thông minh mãi ra!...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-thuoc-phien" }
Sự tích con cào cào
Cào cào xưa kia là một cô gái đẹp. Tính cô thích ăn diện như­ng vì nhà nghèo, nên cô chư­a đ­ược thỏa ý muốn. Một hôm, nhà vua bị mất một cô công chúa. Vua sai quân lính đi tìm khắp đó đây. Lúc đó cô gái đẹp đang kiếm củi bên một gốc cây sấu lớn bên đư­ờng. Tốp lính thứ nhất đi qua, họ bèn hỏi: - Cô ở đây có thấy ai cắp công chúa qua không? Cô gái nhìn ra thấy toán ngư­ời này có nhiều quần áo đẹp, cái nào cũng mỏng bay như­ lụa mầu hồng. Cô thích quá liền bảo: - Cho tôi một chiếc áo, tôi đang rét lắm. Tốp lính bảo nhau cho cô gái một chiếc áo, rồi tiếp tục đi theo h­ướng cô đã chỉ. Một lúc sau lại thấy tốp lính khác chạy qua. Tốp này mặc toàn áo xanh màu lá. Trông thấy cô gái, họ dừng lại hỏi: - Cô ơi, cô có thấy ai cắp công chúa qua đây không? Cô gái nghĩ: tốp trư­ớc đã cho ta áo hồng, tốp này có áo xanh. Ta xin một cái mặc cho đẹp. Nghĩ vậy, cô liền bảo họ: - Tôi đang rét lắm, các ông cho tôi một cái áo thì tôi chỉ lối cho mà đi. Tốp lính lại bảo nhau cho cô gái một cái áo xanh đẹp nhất, rồi họ lại theo đư­ờng cô chỉ dẫn. Đ­ược hai cái áo, cô gái thích quá. Cô mặc vào đứng ngắm mình không chán mắt. Cô chắc thầm hôm nay về nhà ai cũng phải khen ta là đẹp. Trong khi cô đang ngắm vuốt thì lại thấy một tốp lính nữa đi qua. Tốp này mặc toàn quần áo trắng trong như­ n­ước suối. Họ thấy cô gái cũng hỏi: - Cô ơi, cô có thấy ai cắp công chúa chạy đ­ường này không? Cô gái lại quen như­ hai lần tr­ước, cô lại đòi một cái áo rồi mới chỉ đ­ường cho tốp lính đi qua. Thế là cô đư­ợc ba cái áo: Một hồng, một xanh, một trắng. Cái nào cũng mỏng bay đẹp lắm. Cô mặc cả áo vào, ngắm nghía rồi nhảy nhót tung tăng. Bỗng trên trời có một tiếng sét nổ dữ dội, làm một c Sự tích con cào cào  Cô bị bẹp đầu rồi chết hóa ra con cào cào, suốt ngày chỉ tung tăng bay nhảy với bộ áo ba màu. Chỉ vì thích ăn diện, cô gái đẹp đòi cho bằng đ­ược ba chiếc áo ba mầu. Và cô đã phải trả giá cho thói xấu của mình: bị hóa kiếp thành con cào cào suốt ngày bay nhảy với bộ áo ba mầu. Cào cào xưa kia là một cô gái đẹp. Tính cô thích ăn diện như­ng vì nhà nghèo, nên cô chư­a đ­ược thỏa ý muốn. Một hôm, nhà vua bị mất một cô công chúa. Vua sai quân lính đi tìm khắp đó đây. Lúc đó cô gái đẹp đang kiếm củi bên một gốc cây sấu lớn bên đư­ờng. Tốp lính thứ nhất đi qua, họ bèn hỏi: - Cô ở đây có thấy ai cắp công chúa qua không? Cô gái nhìn ra thấy toán ngư­ời này có nhiều quần áo đẹp, cái nào cũng mỏng bay như­ lụa mầu hồng. Cô thích quá liền bảo: - Cho tôi một chiếc áo, tôi đang rét lắm. Tốp lính bảo nhau cho cô gái một chiếc áo, rồi tiếp tục đi theo h­ướng cô đã chỉ. Một lúc sau lại thấy tốp lính khác chạy qua. Tốp này mặc toàn áo xanh màu lá. Trông thấy cô gái, họ dừng lại hỏi: - Cô ơi, cô có thấy ai cắp công chúa qua đây không? Cô gái nghĩ: tốp trư­ớc đã cho ta áo hồng, tốp này có áo xanh. Ta xin một cái mặc cho đẹp. Nghĩ vậy, cô liền bảo họ: - Tôi đang rét lắm, các ông cho tôi một cái áo thì tôi chỉ lối cho mà đi. Tốp lính lại bảo nhau cho cô gái một cái áo xanh đẹp nhất, rồi họ lại theo đư­ờng cô chỉ dẫn. Đ­ược hai cái áo, cô gái thích quá. Cô mặc vào đứng ngắm mình không chán mắt. Cô chắc thầm hôm nay về nhà ai cũng phải khen ta là đẹp. Trong khi cô đang ngắm vuốt thì lại thấy một tốp lính nữa đi qua. Tốp này mặc toàn quần áo trắng trong như­ n­ước suối. Họ thấy cô gái cũng hỏi: - Cô ơi, cô có thấy ai cắp công chúa chạy đ­ường này không? Cô gái lại quen như­ hai lần tr­ước, cô lại đòi một cái áo rồi mới chỉ đ­ường cho tốp lính đi qua. Thế là cô đư­ợc ba cái áo: Một hồng, một xanh, một trắng. Cái nào cũng mỏng bay đẹp lắm. Cô mặc cả áo vào, ngắm nghía rồi nhảy nhót tung tăng. Bỗng trên trời có một tiếng sét nổ dữ dội, làm một cành cây sấu gãy rơi xuống đầu cô gái. Cô bị bẹp đầu rồi chết hóa ra con cào cào, suốt ngày chỉ tung tăng bay nhảy với bộ áo ba màu. Cành cây sấu gãy rơi xuống đầu cô gái. Cô bị bẹp đầu rồi chết hóa ra con cào cào, suốt ngày chỉ tung tăng bay nhảy với bộ áo ba màu.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-cao-cao" }
Hổ và các con vật nhỏ bé
Ngày xưa, ở trên núi Ba Vì có một con Hổ rất hung dữ. Mỗi khi bắt được con vật nào nó thường đùa giỡn làm cho con vật đó khiếp sợ rồi mới ăn thịt. Một hôm, Hổ đang lang thang đi tìm mồi thì nhìn thấy một con Rùa bé nhỏ. Hổ cong đuổi nhảy tới bên cạnh, giơ chân vờn mai Rùa và cất tiếng ồm ồm chễ giễu: – Hỡi chú Rùa bé nhỏ, thân hình chú chưa bằng nửa bàn chân của ta, mà cái vỏ chú lại nặng nề thế này thì còn làm ăn gì được. Chú để ta lột cái vỏ này đi cho nhé! Rùa gặp Hổ thì rất sợ hãi, nhưng khi thấy Hổ không ăn thịt mình liền bình tĩnh và nghĩ ra một kế để lừa Hổ. Rùa trả lời rằng: – Bác Hổ ạ, tôi tuy bé nhỏ nhưng trong rừng này tôi đều có thể bắt cả các loài thú vật to lớn hơn tôi để ăn thịt đấy. Nghe Rùa nói vậy, Hổ rất lấy làm lạ, liền hỏi lại: – Này, chú đừng nói láo thế. Nếu chú đã ăn thịt được con nào lớn hơn chú thì cũng phải có cái gì làm bằng chứ chứ! Rùa ta liền khạc ngay trong miệng ra một miếng mộc nhĩ mà Rùa thường ăn rồi nói với Hổ: – Bác hãy xem, đây là gan con Voi tôi vừa ăn sáng nay đấy. Tôi bắt được con vật nào cũng chỉ ăn có lá gan là đủ no, chứ không như bác phải ăn cả xương lẫn thịt nhé. Con Hổ chưa ăn mộc nhĩ bao giờ nên tưởng là gan Voi thật, nó hoảng quá, sợ Rùa cũng sẽ bắt nó ăn gan, liền cong đuôi chạy miết. *** Hổ chạy đến một dòng suối thì dừng lại uống nước. Một con Cua từ đâu lổm ngổm bò đến ngay cạnh Hổ. Hổ quay lại giơ chân định giẫm chết Cua, nhưng nó lại nghĩ phải làm cho Cua khiếp sợ đã rồi hãy ăn thịt. Nó nói với Cua: – Này lão Cua già kia, lão có tám chân mà ta chỉ có bốn chân, vậy lão hãy chạy thi với ta, nếu ai thua thì chịu chết, lão có bằng lòng không? Cua rất mau trí khôn, nghĩ ngay ra một cách để chạy thi với Hổ, liền gật đầu nhận lời. Cuộc thi bắt đầu. Mỗi lần Hổ cong đuôi nhảy, Cua lại giơ hai càng cặp chặt vào đuôi Hổ. Hổ nhảy được chặng đường nào thì cái đuôi của Hổ đã vứt Cua tới đích trước rồi. Hổ nhảy mãi mà vẫn không hơn được, sợ quá nó kêu lên: – Lão Cua già ơi! Ta hãy nghỉ một lúc đã nhé. Lừa được Hổ, Cua rất thích chí, đứng cười vang lên. Hổ ta nhớ lời thích “ai thua phải chịu chết”, nhân lúc Cua đang mải cười, nó liền cong đuôi chạy thẳng một mạch, không dám quay đầu lại. *** Hổ chạy đến một gốc cây, mệt quá nằm vật xuống nghỉ. Một con Chim Sẻ trên cây nhìn thấy Hổ, cao giọng líu lo chọc tức Hổ và thách thức rằng: – Bác Hổ ơi! Bác to lớn hơn tôi nhiều, thế bác có dám thi với tôi xô đổ cái cây này không? Hổ cậy mình có sức mạnh hơn Chim Sẻ nên nhận lời và còn nói thêm: – Ta xô đổ thì mày phải chịu để ta ăn thịt, nếu ta xông không đổ mà mày xô đổ thì mày ăn thịt ta, có bằng lòng như vậy thì ta mới thi. Chim Sẻ gật đầu, rồi cất cánh bay sang một cây khác đậu. Hổ ra sức húc mãi vào cây nhưng cây vẫn trơ trở chỉ có đám đất dưới chân Hổ là bị giẫm nát. Vần quanh gốc cây suốt buổi trưa chẳng ăn thua gì, Hổ mệt quá ngồi thở và bảo Chim đến xô cây. Chim bay lên một cành cây nhỏ quệt mỏ vào thân cây kêu lách cách và nhún nhẩy làm cho cành con chuyển rung, lá rụng lả tả xuống quanh Hổ. Chim vừa nhảy vừa kêu lên: – Bác Hổ ơi! Bác chạy nhanh lên không cây đè chết bây giờ. Hổ ta thấy lá rụng rào rào, tưởng cây sắp đổ thật, vội vàng cong đuôi nhảy vọt vào rừng mất. *** Bị ba vố liền, Hổ ta kinh sợ, định quay về hang nằm, nhưng bụng đói meo, Hổ lại cắm cổ đi tìm mồi. Đến một ngọn núi trọc, từ xa Hổ đã nhìn thấy một con Tê Tê béo tốt, liền gắng sức lao tới. Tê Tê thấy Hổ thì cuộn tròn lại lăn vào một hốc cây. Từ trong hốc cây, Tê Tê thò đầu ra nói với Hổ rằng: – Bác muốn ăn thịt tôi à, cũng được, tôi sẽ cho bác ăn. Nhưng bác phải thi với tôi xem ai tài giỏi làm cho những người trồng sắn dưới chân núi kia hoảng sợ. Nếu bác được thì tôi chịu để bác ăn thịt. Hổ đói quá chẳng cần suy nghĩ gì cả gật đầu nhận lời ngay. Tê Tê bảo Hổ đứng ra xa, rồi từ hốc cây, Tê Tê lăn tròn rất nhanh xuống chân núi, những người đang trồng sắn tưởng đá ở trên núi rơi xuống liền vội vàng chạy tản ra. Thấy Tê Tê lăn xuống mọi người hoảng sợ chạy, Hổ cũng cong đuôi đâm bổ xuống. Mọi người thấy Hổ liền la lớn lên, vác cuốc vác gậy vây chặt lại, rồi đánh Hổ chết tại chỗ. Đứng trên ngọn núi nhìn mọi người đánh chết hổ, chú Tê Tê khoái chí cười mãi, cười đến nỗi răng rụng xuống đất mọc lên thành những cây cỏ gai rất sắc. Và từ đó Tê Tê không có răng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ho-va-cac-con-vat-nho-be" }
Vương quốc chuột
Ngày xưa, xưa lắm rồi, có một vị vua cai quản một vùng đất rộng lớn, ở đấy có rất nhiều chuột sinh sống. Những con chuột này có nguồn thực phẩm dồi dào và sống rất kỉ luật. Chúng không bao giờ phá hoại cuộc sống của con người nên chuột và người sống bình yên bên nhau. Một năm kia, trời làm mất mùa, lũ chuột chỉ sống được bằng số lúa ít ỏi thu được từ vụ thu hoạch. Kho luá dự trữ của chuột đã gần cạn, vì thế vua chuột quyết định nhờ sự giúp đỡ của con người. Nó diện một bộ cánh đẹp đẽ và khởi hành đến cung vua của loài người. Thị vệ bẩm báo có một con chuột đến xin yết kiến, nhà vua lạ lắm liền cho gọi vào. Vua chuột tiến vào. Nhà vua nói một cách nhã nhặn sau khi nhận được điệu chào hết sức cung kính của vua chuột: - Xin chào người anh em, tôi có thể giúp gì được đây. - Kính thưa đức vua - vua chuột đáp - Năm nay mất mùa đói kém, loài chuột chúng tôi sẽ bị đe dọa chết đói vì lương thực dự trữ của chúng tôi đã sắp cạn. Xin ngài hãy cho tôi mượn đủ thóc lúa để qua được mùa đông này. Chúng tôi sẽ hoàn trả cả vốn và lời vào vụ sau. Nhà vua vuốt cằm hỏi: - À ra vậy! Thế người anh em cần bao nhiêu thóc lúa? - Chúng tôi cần một trong những kho đầy lúa của ngài. - Vậy nhà ngươi sẽ mang nó đi bằng cách nào? - Chúng tôi sẽ có cách ngài yên tâm! Thế là nhà vua hạ lệnh cho mở một kho thóc lớn của mình. Đêm đó vua chuột cho triệu tập tất cả thần dân lại, mấy ngàn con chuột tràn vào kho thóc. Mỗi con nhặt thật nhiều thóc mang đi bằng tất cả những cách mà chúng có thể như: gậm vào miệng, mang trên lưng hoặc cuộn trong đuôi của chúng. Sáng hôm sau, nhà vua đến thăm kho thóc và kinh ngạc khi thấy kho thóc sạch trơn, không còn lấy một hạt. Ông đánh giá rất cao khả năng của chuột. Đến vụ sang năm, vua chuột giữ đúng lời hứa, hoàn trả cả vốn lẫn lãi, nhà vua lúc này đã sẵn sàng thừa nhận rằng loài chuột rất đáng tin cậy và thông minh. Không bao lâu sau đất nước của nhà vua đứng trước nạn bị xâm lược. Quốc gia láng giềng chỉ cách nước ông một con sông là một quốc gia hùng mạnh. Họ nhanh chóng tập hợp một đội quân thiện chiến, hùng hậu đến sát bờ sông chuẩn bị một cuộc tấn công xâm lược. Loài chuột nghe tin, chúng rất buồn vì sợ phải sống với một kẻ trị vì xa lạ và không đồng cảm. Vì thế một lần nữa, vua loài chuột lại đến hoàng cung để đưa ra lời đề nghị giúp đỡ của loài chuột. Dù rất lo lắng nhưng nhà vua cũng cảm thấy thú vị và hỏi làm cách nào mà loài chuột có thể giúp được khi ngay cả ông cũng không thể có đội quân hùng mạnh để xua tan kẻ thù. Vua chuột bảo: - Hãy cứ để việc đó cho tôi. Chiều hôm sau, lúc chạng vạng tối, vua chuột dẫn hàng vạn thần dân đến bên bờ sông, ở đấy chúng tìm thấy hàng trăm ngàn chiếc que được xếp thành hàng mà theo lời đề nghị của vua chuột, vua loài người đã đặt ở đó. Loài chuột sử dụng những cái que này như một cái bè để giúp chúng qua sông đến trang trại của quân thù. Toàn bộ doanh trại đang ngủ say. Theo lệnh vua, lũ chuột phân tán khắp doanh trại và bắt đầu hành động. Chúng ra sức cắn phá, gặm nhấm mọi thứ. Chúng cắn những sợi dây cung, phá những dây đeo súng hoa mai của bọn lính, một số khác gặm mòn ngòi nổ, gặm nhấm quần áo tư trang cùng lương thực... Sau vài tiếng đồng hồ, toàn bộ doanh trại của bọn lính bị cắn phá hoang tàn. Theo lệnh vua lũ chuột tập hợp lại và lên những cái que gỗ để trở về bên kia sông một cách an toàn và lặng lẽ. Sáng hôm sau, bọn lính tỉnh dậy và phát hiện ra tình trạng thảm cảnh của chúng. Tên lính nào cũng bị cắn rách đến tơi tả quần áo, cung không còn dây, súng không có dây đeo và không có một chút nào thức ăn dự trữ cho bữa sáng. Cả doanh trại rơi vào tình trạng náo loạn, ầm ĩ, ai cũng mất bình tĩnh. Bỗng họ nghe thấy tiếng tù và và những tiếng hò reo ở phía bên kia sông. Nghĩ rằng mình sắp bị tấn công nên tất cả binh lính trong doanh trại vắt chân lên cổ mà chạy. Đất nước sạch bóng quân thù! Vị vua của đất nước những chú chuột rất vui mừng vì chiến thắng đó. Ông đã không phải mất một hòn tên mũi đạn nào, không phải hy sinh một tính mạng nào mà đất nước vẫn giữ được sự bình yên. Nhà vua lập tức cho hiệu triệu vua chuột đến để cảm ơn vì sự giúp đỡ đó. Và theo thỏa thuận lúc trước, nhà vua giúp vua chuột trừ khử hai mối nguy hiểm của loài chuột là lũ lụt và những con mèo. Vua ra lệnh xây dựng một hệ thống đê điều để bảo vệ cho tổ của chuột không bị ngập nước vào mùa mưa. Ngoài ra loài mèo bị trục xuất ra khỏi vương quốc không một ai được phép nuôi mèo. Kể từ đó loài chuột được sống bình yên dưới sự che trở của con người.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vuong-quoc-chuot" }
Sự tích con Chẫu Chuộc
Truyện xưa kể rằng, ở xứ Thanh có một lão nhà giàu có nhưng rất keo kiệt, bủn xỉn. Lão nuôi trong nhà một anh cố nông nghèo hèn nhưng hiền lành, khoẻ mạnh. Cha mẹ anh mất sớm chẳng để lại cho anh cái gì ngoài một túp lều rách và một cái chõng tre. Vào một ngày cuối năm, anh xin lão nhà giàu về nhà đẻ hương khói cho cha mẹ cho vong linh họ đỡ tủi. Lão nhà giàu đong cho anh năm bát gạo rồi để anh về. Về đến nhà ngoài năm bát gạo ra anh chẳng có gì để nấu. Anh phải sang nhà hàng xóm xin ít củi. Rồi anh thấy thắp hương cho cha mẹ mà chỉ có mỗi bát cơm cúng không thôi thì hẳn cha mẹ anh buồn tủi lắm. Anh liền cầm cái gầu sòng ra suối tát cá. Lúc bấy giờ cũng đã gần nửa đêm ba mươi Tết, các quan trên trời được Ngọc Hoàng sai xuống trần gian xem xét mọi việc. Gặp anh cố nông đang tát cá, các quan hạ mây xuống đất, và hỏi: - Này anh kia, năm hết tết đến rồi, sao giờ này anh vẫn ở đây tát cá. Về nhà mà ăn tết với gia đình đi thôi chứ. Thấy có người, hỏi anh dừng tay: - Thế các người là ai? - Ta là các quan trên trời được Ngọc Hoàng sai xuống xem dưới hạ giới ăn tết ra sao. Nghe nói đến các quan trên trời, anh vô cùng giận giữ. Sẵn có cái gàu sòng tát cá anh nện túi bụi vào các quan, vừa đánh vừa nói: - Trời bảo "ai giàu ba họ, ai khó ba đời". Vậy mà nhà tôi khổ suốt bốn, năm đời rồi mà vẫn chưa hết khổ. Các quan bị đánh đau quá vội quay về tâu với Ngọc Hoàng. Ngọc Hoàng vội vàng mở sổ Nam Tào ra tra xét thì thấy có điều bất công đấy thật. Anh chàng kia đã khổ quá ba đời, còn lão hà tiện thì sống sung sướng quá ba đời rồi. Thật là một sai sót cần phải sửa ngay. Anh cố nông sau khi tát được ít cá thì trở về nhà. Lúc này sang năm mới. Vừa về đến nhà một lát thì có một cô gái đi qua nói là lỡ độ đường xin được ngủ nhờ một đêm. Lúc đầu anh không chịu, xong nhìn thấy cô mệt mỏi, lại đã sang năm mới rồi nên anh thương tình cho ngủ nhờ. Anh nhường chiếc chõng tre cho cô còn anh ôm bó rơm ra nằm xó lều. Sáng hôm sau, tỉnh dậy, anh không thể tin vào mắt mình. Túp lều của anh đã biến thành một toà lâu đài nguy nga, rực rỡ, đầy người hầu kẻ hạ. Chợt cô gái đêm qua xin ngủ nhờ nói: - Anh hãy sang mời phú ông đến ăn tết đi. Nghe lời cô, anh sang nhà phú ông mời lão sang. Lúc đầu nghe anh nói xong, lão phì ra cười nhưng sau thấy anh nài nỉ quá lão đành trả lời cộc lốc: - Mày có thể trải chiếu hoa suốt từ ngõ nhà mày đến đây không? Nếu được tao sẽ sang. Anh thất vọng về nói với cô gái. Cô gái an ủi anh rồi đoạn cô ra nhà sau mang đến không biết bao nhiêu chiếu hoa rực rỡ. Anh cố nông chỉ việc đem trải từ ngõ đến nhà lão hà tiện. Về phần lão hà tiện, sau khi làm anh cố nông bẽ mặt thì lấy làm hả hê lắm. Một lúc sau, thấy người nhà bảo anh cố nông đã trải chiếu hoa từ ngõ nhà anh đến nhà lão thì lão ngạc nhiên lắm. Lão hối hả đi ngay. Sang đến nơi, lão bị choáng ngợp trước tòa lâu đài nguy nga rực rỡ, to gấp mấy trăm lần dinh cơ của lão. Bữa cơm ở nhà anh cố nông thật ngon. Về nhà rồi lão vẫn thòm thèm và dạ đầy luyến tiếc. Máu tham đùng đùng trỗi dậy. Lão bàn với vợ: - Hay là ta đổi nhà mình cho nó đi. - Ông có bị làm sao không đấy, nhà nó to đẹp như vậy đời nào nó chịu đổi lấy nhà mình - Vợ lão nói. - Ta phải có cách chứ - Lão trầm tư suy nghĩ - à, phải rồi, con gái, ta có đứa con gái. Gả con gái cho nó, đã là con rể mình rồi, thì bảo gì mà nó chẳng nghe. Mụ vợ cũng cho là phải. Hai vợ chồng lão hý hửng gọi anh cố nông đến bàn về việc gả con gái cho anh rồi sau đó đổi nhà. Anh đồng ý. Hai bên làm giấy tờ thoả thuận với nhau. Sau đám cưới linh đình, đôi vợ chồng trẻ về ở nhà lão hà tiện, còn vợ chồng lão thì về toà lâu đài của anh cố nông. Vợ chồng lão hý hửng ra mặt. Đêm hôm đấy hai vợ chồng lão ngủ trong sự sung sướng tột đỉnh. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, ôi thôi, toà lâu đài nguy nga tráng lệ cùng với những gia nhân đông vui tấp nập biến đâu mất. Chỉ còn lại mỗi túp lều tranh rách nát cùng với cái gàu sòng và rổ xúc tép của anh cố nông. Còn hai vợ chồng lão thì đang nằm ôm nhau ngủ trên chiếc chõng tre tồi tàn. Quá đau đớn xót xa, hai vợ chồng lão quay ra cãi nhau. Chồng bảo "chuộc" lại, vợ giận chồng khăng khăng cãi "chả chuộc". Cứ thế cãi nhau một hồi lâu, "chuộc - chả chuộc" tức quá lão hà tiện túm lấy vợ đánh cho một trận, vợ lão cũng không vừa, túm chồng đánh lại miệng luôn luôn nói "chuộc - chả chuộc". Quá mải mê đánh nhau, cả hai rơi tòm xuống giếng trước cửa nhà. Sau khi chết chúng hoá thành hai con chẫu chuộc cứ suốt ngày ôm nhau "chuộc - chả chuộc". Đáng đời kẻ tham lam.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-chau-chuoc" }
Chim sâu và Cáo
Có một thời gian Chim sâu và Cáo là một đôi bạn chí thân. Cáo chạy đến đâu, Chim sâu cũng bay tới đó. Có một lần Cáo nói: – Này bạn, chúng ra hãy cùng nhau gieo trồng lúa đi. – Đồng ý thôi! Chim sâu trả lời. Thế là Chim sâu và Cáo cùng nhau gieo hạt. Hạt nảy mầm và lớn lên rất nhanh. Chẳng bao lâu đã đến lúc thu hoạch mùa màng. Từ sáng tinh mơ, Chim sâu và Cáo đã bắt đầu gặt. Nhưng rồi Mặt Trời bắt đầu mọc và cơn lười của Cáo cũng bắt đầu nổi lên. Nó nghĩ cách làm sao đánh lừa Chim sâu để đỡ phải làm mệt nhọc. – Này anh bạn – Cáo nói – bạn hãy gặt đi nhé, còn tôi, tôi sẽ ra mãi phía sau núi đằng kia để nâng bầu trời lên, nếu không, trời sẽ rơi xuống mất, mà trời đã rơi xuống thì lúa của chúng mình sẽ bị hỏng hết thôi. – Bạn cứ đi đi, Chim sâu nói rồi lại cúi xuống gặt tiếp. Còn Cáo ta đã đi lên ngọn núi cao, chung quanh có mây bao phủ. Cáo ngồi trên núi và giơ một chân trước lên, làm ra vẻ như nó đang nâng mây lên. Chim sâu gặt xong, bó lúa lại thành từng bó, thu dọn gọn gàng đâu đấy. Chim sâu gọi to: – Này bạn Cáo ơi, chúng mình hãy đi đập lúa đi. – Bạn hãy đập lúa đi, bạn ạ, tôi còn phải nâng trời lên chứ. Nếu không, cả bầu trời sẽ rơi xuống và làm hỏng hết cả lúa của chúng mình còn gì. Thế là Chim sâu lại một mình đập lúa. Làm xong đâu đấy, Chim sâu gọi: – Này bạn Cáo ơi! Hãy về đi, chúng ta chia phần thôi. – Tôi về ngay đây. Cáo kêu to và chạy thật nhanh về. Cáo chia chỗ lúa ra làm ba phần, lấy một phần đưa cho Chim sâu và nói: – Phần lúa của bạn đây, còn riêng tôi, phải trả cho tôi hai phần vì công việc của tôi nặng hơn của bạn, tôi đã phải nâng cả bầu trời lên kia mà! Chim sâu đành nuốt hận, nhận phần lúa ít ỏi của mình và bay về tổ. Dọc đường, Chim sâu gặp bạn Chó săn. Chó săn hỏi:  - Vì sao bạn buồn thế ? Chim sâu bèn kể cho bạn Chó nghe nỗi oan uổng của mình. Chó vô cùng tức giận, nói: - Bạn hãy dẫn tôi đến ngay vựa thóc của Cáo đi. Tôi sẽ trị tội tên Cáo gian tham này. Thế là Chim sâu dẫn Chó đến vựa thóc của Cáo. Chó chui vào nấp trong vựa thóc. Ngày hôm sau, Cáo đến vựa thóc để đem thóc đi xay. Nó bắt đầu cào thóc thành đống. Bỗng nhiên, nó trông thấy mõm Chó nhô ra trên đống thóc, nó tưởng là miếng thịt ăn được, bèn ngoạm lấy! Chó săn nhảy ra, lao thẳng vào Cáo, đuổi Cáo ra khỏi vựa thóc, đánh cho nó một trận thừa sống thiếu chết về tội đánh lừa Chim sâu. Thật đáng đời cho những đứa tham lam và lừa dối bạn!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chim-sau-va-cao" }
Tại sao trâu đen, bò vàng?
Trâu và bò ngày xưa là hai anh em kết nghĩa. Chúng cùng sinh ra ở một vùng nông thôn hẻo lánh. Khi còn nhỏ cả hai đều có một bộ lông trắng rất đẹp và mịn màng. Lớn lên, trâu rất chăm chỉ làm việc. Mọi công việc đồng áng dù nặng nhọc vất vả đến đâu trâu đều không quản ngại. Ban ngày trâu kéo cày ở những đám ruộng sâu bùn lầy. Tối về nó lại chăm chỉ giúp người kéo trục đập lúa. Khi người làm nhà nó đảm nhiệm việc vào rừng kéo những cây gỗ dài và nặng. Một lần, lão hổ già đòi người phải cho xem trí khôn, trâu đã giúp người trói được lão hổ gian ác vào gốc cây. Hôm ấy lão hổ bị người chất rơm đốt nên lông hổ mới vằn vện như bây giờ. Trong khi đó thì bò lại rất lười biếng. Nó chỉ đi cày bừa ở những nơi ruộng nương cao ráo, đất tơi xốp và nhẹ. Đêm đêm khi trâu giúp người đập lúa thì bò nằm nghỉ ngơi và nhai rơm khô. Chính vì trâu chăm chỉ nên người mới yêu quý và giao cho trông coi cây rơm. Đó là thức ăn dự trữ mùa đông của trâu bò. Khi bò muốn đến ăn rơm đều phải xin phép trâu. Mùa đông năm ấy, trời rét lắm, sương muối rơi dày nên cỏ lụi hết. Bò đói quá năn nỉ: – Anh trâu ơi! Em đói quá, cho em thêm một bó rơm… – Mày là đồ lười biếng, hay trốn việc nên ăn ít thôi! Bị trâu mắng, bò tức lắm. Nó ôm cái bụng lép kẹp đi ngủ nhưng không làm sao ngủ được. Bò rất muốn đến ăn rơm nhưng trâu luôn nằm chắn canh chừng ngay cạnh cây rơm. Hai cái sừng nhọn hoắt chĩa ra. Mấy anh lợn toan đến rút trộm ít rơm để lót ổ cũng không dám lại gần. Bị đói, nằm không ngủ được nên bò rất oán hận trâu. Nó liền nghĩ cách trả thù. Một hôm, lừa cho trâu đi cày về mệt ngủ quên, bò liền châm lửa đốt cây rơm. Cây rơm bén lửa cháy đùng đùng, khói mù mịt. Trâu nằm đắp rơm lên cho ấm nên bị bén lửa ngay. Bộ lông trắng của trâu bị cháy đen thui, nó hốt hoảng lăn ngay xuống vũng bùn cho đỡ nóng. Trong khi đó vì đói quá, bò liều mạng lao vào chỗ cây rơm đang cháy cố lôi lấy một ít rơm để ăn. Thành thử bộ lông trắng mượt và chải chuốt của bò cũng bị ám khói vàng khè. Sau lần bị cháy ấy, trâu mới có màu đen và bò mới có màu vàng như ngày nay.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tai-sao-trau-den-bo-vang" }
Ba bà hoàng hậu
Ngày xửa, ngày xưa, có một ông vua trẻ. Ðức vua cai trị một vương quốc giàu có, xinh đẹp, nhưng đẹp nhất có lẽ là ba bà hoàng hậu của đức vua. Ba vị hoàng hậu này vừa có sắc lẫn có tài, nên cả ba đều được đức vua sủng ái như nhau. ” Mỗi người một vẻ, mười phần vẹn mười”. Cho đến một hôm, nhà vua bỗng nảy ra một ý nghĩ: Trong ba mỹ nhân này thế nào cũng có một người tuyệt diễm hơn hai người kia, nhưng ta không tài nào nhận ra được, có lẽ vì mình nhìn mãi nó quen mắt đi chăng? Hay là ta hỏi ý kiến bọn cung phi vậy”. Ðức vua bèn mở cuộc trưng cầu dân ý tại hậu cung để tìm xem trong ba mỹ nhân ai là người đẹp nhất. Kết quả cũng không lấy gì làm sáng sủa cho lắm, vì ai cũng cho rằng cả ba vị hoàng hậu đều đẹp ngang nhau. Kẻ tám lạng, người nửa cân vậy. Nhà vua lại đem nội vụ ra bàn với đình thần. Kết quả cũng tương tự như trên. Quan tể tướng khuyên đức vua nên dừng cuộc giảo nghiệm lại, vì e nó chẳng ích lợi gì mà đôi khi mang đến hậu họa khó lường được. Thay vì nghe lời khuyên sáng suốt của vị trung thần lão thành ấy thì đức vua của chúng ta lại nổi cơn thịnh nộ, truyền lệnh cho quan tể tướng phải giải quyết cho xong công việc trong vòng ba hôm. Sau một lúc im lặng, quan tể tướng kính cẩn tâu: – Muôn tâu bệ hạ, thần trộm nghĩ rằng, bọn hạ thần chỉ sở trường về chuyện cung kiếm văn thơ, còn chuyện đẹp xấu tướng hảo ra sao thì chắc phải nhường cho các vị bốc sư nổi tiếng. Hay là bệ hạ cho vời y vào, y sẽ phân biệt rõ ràng hơn không? Nhà vua nguôi giận. Một ông thầy bói được lập tức triệu vào cung để chiêm ngưỡng dung nhan ba người đẹp. Vị bốc sư không chịu cho biết kết quả ngay mà xin khất lại ngày hôm sau để về “tra tự điển” lại. Lão bốc sư đi rồi, quan tể tướng bèn tâu nhỏ với đức vua: – Muôn tâu thánh thượng! Hạ thần trộm nghĩ rằng qúi đức bà, mỗi người có một vẽ đẹp riêng, tùy theo nhãn quan và sở thích của từng người. Ý kiến của chúng thần có thể bất đồng nhau, nhưng vì sợ uy quyền của quí đức bà, nên bọn hạ thần không dám nói lên ý kiến của mình mà chỉ kết luận chung chung rằng, cả ba đức bà đều tài sắc như nhau. Nếu thần không lầm thì lão bốc sư này cũng lâm vào một tình thế khó xử như bọn hạ thần, nên lão mới xin khất lại vào ngày mai đó thôi. – Thế thì khanh giải quyết bằng cách nào? – Muôn tâu! Ngu thần có một kế mọn là bệ hạ giả mạo bức thư, ký tên của ba đức bà, hẹn lão ấy đến ba địa điểm riêng. Nếu y đến địa điểm nào thì đức bà ấy sẽ là người đẹp nhất. – Hay lắm, khanh hãy thi hành ngay cho trẩm. Ba bức thư tức tốc được gởi đi và lão bốc sư đi đến chỗ hẹn với bà hoàng đẹp nhất. Ðức vua truyền lệnh chém đầu lão thầy bói … Và từ đó ngài đặc biệt sủng ái vị hoàng hậu vào chung kết nầy. Hai bà hoàng hậu còn lại vô cùng tức tối, họ âm mưu với nhau dùng độc dược giết chết bà hoàng hậu đẹp nhất. Chuyện bại lộ, đức vua truyền lệnh xử tử luôn hai bà hoàng hậu còn lại. Ba vị hoàng hậu xinh đẹp nhất nước đều chết hết, đức vua còn lại một mình để thấy hoàng cung sao mà trống trải lạnh lẽo, bất kể Xuân Hạ Thu Ðông.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-ba-hoang-hau" }
Bác sĩ Sói
Sói kiếm mồi trong rừng, chợt nhìn thấy một chú ngựa đang ăn ngoài đồng cỏ. Chú ngựa béo tốt quá, mà không có ai trông cả. Mõm chú không có cương, cổ chú không có dây buộc. Sói thèm rỏ nước dãi, nhưng nghĩ bụng: không có người giữ thì hay lắm, nhưng cũng không có dây buộc, giữa đồng trống, nó thấy mình nó chạy thì khó lòng đuổi kịp. Có đuổi kịp thì nó to khỏe thế ấy, đánh với nó dễ cũng hết hơi. Nhỡ giằng co lâu, chủ nó biết, chạy ra thì sao. Nó đi tìm một cái kính đeo lên mắt, một ống nghe cắp vào cổ, choàng một áo khoác trắng và chụp lên đầu một mũ vải trắng có thêu chữ thập đỏ. Nó ra khỏi rừng, khoan thai tiến về phía ngựa. Chú ngựa bình tĩnh đề phòng: Chú biết nếu cuống lên thì chắc chết. Chú chờ xem Sói giở trò gì, chú sẽ phi ngược phí rừng, vừa phi vừa hí, thôn xóm ở phía ấy, người và chó sẽ đổ ra tiếp cứu chú. Tiến được một quãng, Sói lấy giọng hiền lành nói: – Bên xóm mời ta khám bệnh, ta đi đây. Nào lừa, ngựa, bò, dê, ai có bệnh ta khám hộ cho rồi sẽ đi, hãy còn sớm. – A! Xin chào ngài bác sĩ. Cháu đau lắm, ngài làm ơn khám và chữa giúp, tốn bao nhiêu cháu sẽ xin tiền chủ trả hầu ngài. – Chà! Chà! Chữa làm phúc, tiền với nong gì! Đau thế nào? Đau ở đâu? Lại đây xem thử. – Ối! Ối! Cựa một cái là nó đau thấy trời! Phiền ngài lại phía sau cháu cúi xuống mà xem. Đau ở chân sau, chân phải, chắc là giẫm phải gai. Sói mừng rơn, mon men lại phía sau chú ngựa. Nó vờ cúi cúi nhìn thực ra đang lừa thế để chồm lên cắn đùi ngựa cho bại liệt hết chạy. Chú ngựa nhón nhón chân, vờ rên rỉ: - Chao ôi! Đấy, đấy, ở lòng bàn chân, ngài xem kỹ cho! Khi thấy vừa tâm, ngựa tung vó đá một cái trời giáng khiến Sói bật ngửa người bốn cẳng bơi bơi giữa trời. Kính vỡ, mũ văng xa, vành móng sắt va đúng mõm làm gãy mấy chiếc răng và đổ máu mồm, máu mũi. Ngựa nhảy ra xa đứng hí dài. Sói gượng dậy lê lết về phía rừng. Nhưng không kịp rồi. Mấy con chó chạy trước một đoàn người theo sau mang giáo mác, kết liễu đời con thú ác.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bac-si-soi" }
Sự tích con hổ
Ngày xưa có một gia đình rất đông con, quanh năm vất vả với nương rẫy. Trồng lúa, tỉa ngô hàng năm cũng không đủ cơm ăn, đến nỗi ăn rau rừng không kịp mọc, ăn măng rừng đến nỗi không kịp nhú khỏi mặt đất, phát rẫy to sáu bảy quả đồi cũng không đủ lúa ngô nuôi con ăn, đến nỗi không còn lúa giống. Một hôm người cha lên rừng thăm bẫy, đến chỗ đặt bẫy, ông thấy cây cối ngả nghiêng, đất đá xới tung lên như một vũng nước trâu tắm. Ông quan sát kỹ nhưng chẳng thấy con thú nào cả, ông nhìn ngược nhìn xuôi mới phát hiện là cần bẫy của mình bị gẫy, ông lần theo dấu vết con thú kéo cần bẫy đi. Từ đồi này qua đồi nọ, từ suối này qua suối khác, ông đã đi hết cả ngày rồi nhưng tìm vẫn chưa thấy. Bụng đã đói, ông mệt lả vác cây giáo cũng không nổi. Nhưng ông vẫn kiên quyết phải lần theo bằng được con thú này. Ông ta lần theo dấu vết tới một nơi rừng sâu, um tùm cây lá thì tự nhiên dấu vết không còn thấy nữa. Ông ta lùng sục khắp khu rừng đó, tới cạnh một trảng cỏ chỉ bằng cái rẫy nhỏ thôi. Giữa trảng cỏ có một bụi lúa dại đang chín vàng ươm như lúa mình trồng ngoài rẫy, đếm lên đếm xuống, đếm tới đếm lui chỉ có 7 bụi. Ông ta vội vàng lấy túi đeo của mình tuốt hết 7 bụi lúa vừa đầy túi đeo, ông vội vã đi về. Đeo túi lúa đi về, nửa mừng vì có thêm một túi lúa giống, nửa lo âu suy nghĩ trong đầu, con thú dính bẫy của mình là con gì. Trên đường về ông bốc một nắm lúa, cắn từng hạt bỏ vỏ nhai cho đỡ đói bụng. Ông ta vừa lững thững đi về vừa nhai hạt lúa, về tới nhà thì đêm đã khuya, vợ con ông đã đi ngủ rồi nhưng bếp lửa vẫn còn mờ mờ sáng, trước khi đi ngủ, ông ta treo túi lúa ở cột nhà và sau đó ông đi nằm cạnh vợ. Trong đêm tối bếp lửa mập mờ, bỗng dưng vợ ông la hét và run sợ vì bà ta nhìn thấy thân hình ông biến dạng thành con vật lạ lùng. Ông ta giật mình đứng dậy thổi bếp lửa cho sáng, lửa sáng lên thì bà ta thấy ông vẫn là hình người. Cứ như thế qua một đêm, đến sáng hôm sau người vợ hỏi chồng: - Hôm qua ông đi thăm bẫy về khuya, lúc ông nằm cạnh tôi, lửa bếp mờ mờ sáng, tôi thấy thân hình người ông kỳ lạ quá. Nó rằn ri đốm trắng đốm đen, không biết giống cái gì, tôi sợ quá ông à. Ông chồng trả lời: Sao bà nói năng lạ kỳ thế, mọi khi bà có như vậy đâu hay là bà mơ, hay là bà có ốm đau gì không, bà bị quỷ thần nhập vào không? Bà vợ chưa biết đầu đuôi câu chuyện nên bỏ qua chuyện kỳ lạ. Một hôm, trong lúc người chồng đi vắng, người vợ vô tình đụng cái nia vào túi lúa dại kia, làm đổ túi lúa, bà ta lượm từng hạt bỏ lại vào túi, tưởng rằng ông ta đã xin lúa hàng xóm về làm giống. Theo thói quen, bà ta bóc vài hạt lên nhai. Đêm hôm đó, trong lúc đang ngủ - bếp lửa mờ mờ lúc sáng lúc mờ, chồng lại nhìn vợ cũng giống như lời vợ nói với mình, ông ta hốt hoảng và chợt nhớ hôm đó ông đi thăm bẫy về có nhai hạt lúa dại kia mới bị như thế. Ông trầm ngâm suy nghĩ và nói với vợ: Thôi ta đi ngủ đi, đừng bận tâm gì, nhưng người vợ vẫn chưa biết chuyện. Ngày hôm sau, người chồng rất lo âu vì tận mắt mình đã nhìn thấy vợ cũng bị như mình nên mới nói với vợ sự thật về lúa dại từ trong rừng mang về, và để xem thửnhư thế nào, có đúng thật là như thế không, ông chồng bàn với vợ. - Này bà ơi! Hay là ta cho con mỗi đứa một ít cho tụi nó ăn thử xem nó có thật như vậy không. Nếu thật vì lúa dại thì dù sao bà và tôi cũng đã ăn rồi, còn con cái thì chưa. Mà lỡ không cho tụi nó ăn thì chỉ có hai vợ chồng mình bị thì tụi nó bơ vơ không cha không mẹ, không có ai nuôi nấng tụi nó. Nếu cho tụi nó ăn như mình thì tụi nó cũng giống như mình thôi. Thế là hai vợ chồng đồng ý với nhau, để sáng mai rủ chúng nó lên rẫy rồi cho từng đứa một ăn. Và nói dối tụi nó nhà mình đi tỉa lúa. Hôm sau, sáng sớm tinh mơ, người cha gọi từng đứa con mình dậy sớm cùng lên rẫy. Nghe cha mẹ nói là đi tỉa lúa, tất cả các con đều nghe theo, người thì cây chọc lỗ, người thì chuẩn bị cái rổ đựng lúa hớn hở cả nhà kéo nhau lên rẫy. Đến rẫy, người cha nói với các con: - Hôm nay, ta tỉa lúa, các con bỏ hạt lúa trong lỗ đừng bỏ nhiều nhé, chỉ bỏ từ một đến hai hạt thôi vì lúa này giống tốt lắm. Nếu ta bỏ nhiều quá thì không đủ tỉa hết rẫy mình đâu. Nếu thừa ta sẽ mang về ăn. Nghe lời người cha, tất cả các con đều làm theo lời cha dặn. Đến trưa, cả nhà tỉa xong, số lúa vẫn còn thừa. Trong giờ nghỉ sau khi tỉa xong, người cha chia cho từng đứa, mỗi đứa một nắm nhỏ để ăn, nghe theo cha dặn, các con răm rắp làm theo. Cha mẹ cũng ăn, mọi người cùng ăn. Thế là cả nhà đều ăn. Cả nhà ăn vào thấy ngon, ai cũng khen ngon và thơm. Về tới nhà, sau bữa cơm chiều, cả nhà họ vẫn thấy bình thường. Đến sáng hôm sau, lúc tỉnh dậy, cả nhà nhìn nhau, ai cũng hóa thành con vật kỳ lạ. Người cha thì hóa thành con hổ đực to nhất, còn mẹ thì hóa thành hổ cái, con trai lớn thì hóa thành con cọp, con beo, con nhỏ nhất thì hóa thành con báo. Vậy là cả nhà ăn lúa dại rừng đã biến thành loài thú. Họ rú ầm ĩ trong nhà, chạy náo loạn ngoài sân. Dân làng trong bon nhìn thấy lạ, ai cũng sợ hãi, hoang mang, người cầm cây, người cầm sà gạc, người giương cung tên, người cầm chày giã gạo đuổi họ ra khỏi làng, tới tận rừng sâu. Và từ đó, cả nhà cọp, beo và báo này không còn là người nữa. Họ đã thành thú vật hung dữ trong rừng sâu, cứ gầm rú trong rừng và từng ngày đuổi bắt những thú vật hiền lành, nhỏ thân để làm mồi cho chúng. Còn lúa dại kia đã tỉa rồi nhưng chờ bao nhiêu ngày tháng vẫn không mọc trên đất mà họ đã tỉa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-ho" }
Sự tích con Đỉa, con Muỗi và con Vắt
Ngày xửa ngày xưa, ở một buôn làng kia, có một người đàn bà goá chồng, sống với ba đứa con trai còn nhỏ. Gần đó có một con quỷ chuyên hút máu và ăn thịt người, nó rất thèm ăn thịt ba đứa trẻ này. Nhưng những đứa trẻ suốt ngày chỉ ở trong nhà chơi. Quỷ bèn nghĩ kế. Một đêm, quỷ giả dạng một người đàn ông, mò đến nhà người đàn bà goá. Người đàn bà hỏi: - Anh đi đâu mà đêm hôm đập cửa? Đến thăm nhà hay đi đòi nợ ai vậy? Con quỷ nói dối trơn tru: - Tôi đi thăm họ hàng. Chẳng may trời tối mà chưa đến nơi. Tôi xin ngủ nhờ lại ở đây nhé? Nói rồi, quỷ đem khoai, gạo và cá đem biếu cho người đàn bà và những đứa trẻ. Cả nhà không ai nghi ngờ con quỷ. Vài hôm sau, con quỷ lại đến nhà. Lần này, hắn đem đến những chuỗi hạt cườm và những chiếc vòng bạc, xin lấy người đàn bà goá làm vợ. Từ đó, trong nhà có thêm một người đàn ông. Người đàn ông này rất chăm chỉ làm ăn, nhưng không hiểu sao, hắn chẳng bao giờ nói với ba đứa trẻ một lời. Những lúc người đàn bà đi vắng, con quỷ nhìn ba đứa trẻ chơi đùa, trong bụng đầy thèm khát, nuốt nước miếng ừng ực. Một hôm con quỷ nói với vợ: - Hôm nay tôi sẽ vào rừng đan chiếc bồ đựng bắp. Tôi sẽ đưa thằng lớn vào rừng dạy nó cách đan bồ. Nó đã lớn rồi, phải dạy nó làm lụng chứ. Người vợ không nói gì cả. Rồi con quỷ dẫn đứa bé vào rừng. Hắn chặt nứa đan bổ. Đến trưa, con quỷ bảo thằng bé chui vào trong bồ để rút nan. Thằng bé đang loay hoay chui vào bồ thì con quỷ chụp bồ lên đầu. Quỷ cắn cổ thằng bé hút máu rồi ăn thịt. Buổi chiều thấy chồng về một mình, người vợ hỏi: - Ở kìa, thằng con đâu rồi? Con quỷ giả bộ mệt nhoài nói: - Nó mải chơi, bị lạc trong rừng. Tôi tìm suốt từ sáng đến giờ mà không thấy. Chắc con cọp ăn thịt nó rồi. Người đàn bà nghe nói vậy, khóc lóc thảm thiết. Mấy hôm sau, con quỷ lại dẫn đứa trẻ thứ hai vào rừng. Hắn lại ăn thịt đứa bé, rồi trở về một mình. Nghe vợ hỏi, con quỷ lại tìm cách nói dối: - Thằng bé đi đường, gặp dòng suối mát. Nó nhảy xuống suối tắm, rồi bị nước cuốn trôi mất rồi. Người đàn bà thương con, khóc lóc đến chết đi sống lại. Mấy hôm sau, con quỷ lại tìm cách đưa đứa bé còn lại vào rừng. Người mẹ sinh nghi, nhất định không chịu cho con đi. Nhưng con quỷ cứ khăng khăng bắt thằng bé đi theo hắn. Người mẹ đợi con quỷ đi khỏi liền lẻn đi theo. Vào đến rừng, người đàn bà núp trong bụi cây, nhìn chồng và con đan bồ. Đến trưa, người đàn bà hoảng hồn vía thấy con quỷ chụp bồ lên đầu con mình rồi cắn cổ thằng bé. Người đàn bà lăn ra bất tỉnh trong bụi cây. Lúc tỉnh dậy, chị hoảng hất chạy về nhà, vừa chạy vừa khóc. Dọc đường về nhà, người đàn bà gặp một người đàn ông bên một gốc cây đa to. Người ấy tự xưng là thần cây đa Pọ Đàr. Nghe xong câu chuyện, thần Pọ Đàr nói: - Đây là một con quỷ hung ác chuyên ăn thịt người. Muốn giết nó, phải dùng mưu mới được. Rồi thần Pọ Đàr bày mưu cho người đàn bà. Người đàn bà về nhà, cố giữ vẻ mặt bình thường. Đến tối, con quỷ về nhà một mình. Vừa về đến nhà chưa đợi vợ hỏi hắn đã huyên thuyên: - Thằng bé mải chơi, bị lạc trong rừng. Người vợ nhìn mặt chồng, thốt lên: - Kìa ở mặt anh có vết máu! Anh đi rửa mặt đi đã, em xối nước cho. Con quỷ nghe nói mặt mình có vết máu, giật mình lo sợ. Người vợ xối nước cho chồng rửa mặt. Chị trút một bầu nước ớt vào mặt con quỷ. Quỷ bị nước ớt chảy vào mắt cay xè, không làm sao mở được mắt nữa. Vừa lúc ấy, người đàn bà cầm cây xà gạc sắc chém vào cổ con quỷ. Con quỷ rú lên đau đớn. Nó giãy giụa mãi, rồi chết. Máu con quỷ chảy xuống suối, hóa thành những con đỉa. Máu con quỷ chảy vào khe đá, và đám lá mục, hóa thành những con vắt. Máu quỷ còn hóa thành những con muỗi vo ve bay lên cành cây nấp vào những chùm lá rậm. Cho đến bây giờ, lũ đỉa, muỗi, vắt vẫn luôn tìm cách hút máu người.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-dia-con-muoi-va-con-vat" }
Sự tích hoa Sen
Ngày xửa, ngày xưa ở một ngôi làng nhỏ có 2 cô bé mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Hai cô bé được một người tốt bụng đưa về nuôi, ông là một người chuyên hát xẩm. Hàng ngày ông dạy cho 2 cô bé những điệu múa bài hát hay. Rồi cô em nhỏ tự dưng lâm bệnh vì muốn em khỏi bệnh cô chị đã mang đốt chiếc nhẫn quý của mình làm thành thuốc thần cứu sống em. Thời gian dần trôi 2 chị em càng ngày càng lớn và trở nên xinh đẹp. Không chỉ xinh đẹp 2 chị em còn hát và múa rất đẹp khắp vùng gần đó ai ai cũng biết đến. Trong vùng có một tên công tử khét tiếng độc ác, làm mưa làm gió cả vùng. Hắn nghe được về 2 chị em xinh đẹp liền nghĩ ra âm mưu bắt về làm vợ của hắn. Bởi lòng dạ xấu xa luôn muốn bắt 2 cô về nhà mình. Một hôm người cha nuôi phải đi xa, ông hứa sẽ mua tặng mỗi con 1 món quà. Cô chị xin cha một đôi hài màu trắng thêu chỉ vàng, còn cô em xin cha một đôi hài hồng thêu chỉ vàng. Khi biết chuyện người cha đi vắng tên công tử đã cho người đến bắt cô chị về. Vì không chịu khuất phục trước kẻ ác để giữ trọn trinh tiết của mình cô gieo mình xuống hồ. Vì tình thương chị quá nhiều cô em cũng nhảy xuống hồ theo chị. Vậy là 2 cô đã gieo mình xuống hồ. Mấy hôm sau khi người cha trở về không thấy con đâu. Ông đã đi tìm mọi nơi nhưng vẫn không thấy 2 chị em đâu cả. Và rồi ông được mọi người kể lại về sự ra đi của 2 cô. Một mùi hương thơm ngan ngát toả ra từ hồ và ông nhìn thấy trên mặt hồ những bông hoa trắng và hoa màu hồng đang tỏa hương thơm ngát một không gian. Những bông hoa mang hình dáng xinh xắn thon thon, hoa còn có nhụy vàng ở giữa trông như sợi chỉ thêu màu vàng. Hoa có những chiếc lá xanh mát xòe to giống như những chiếc nón quai thao các cô vẫn thường hay đội khi múa và hát. Thấy vậy người cha đã quá đau buồn xót xa cho 2 cô con gái tội nghiệp của mình.Ông bật khóc nức nở khi 2 con đã ra đi. Bất ngờ 2 cô gái từ dưới hồ hiện ra và bước lên cạnh ông. Hai cô liền kể lại câu chuyện cho người cha biết. Khi 2 chị em gieo mình xuống hồ đã được sự giúp đỡ của bà chúa hồ thương tình dang tay đón lấy và cứu sống. Bà chúa hồ rất thương và quý hai cô và bà luôn muốn giữ hai cô ở lại với bà nhưng hai cô muốn được trở về nhà để chăm sóc cho cha. Vì sự hiếu thảo của hai cô gái mà bà đã để hai cô được trở về với cha mình, mặc dù rất muốn 2 chị em ở lại nhưng không thể được vì vậy bà tạo ra những đóa hoa tượng trưng cho 2 cô và bông hoa đó có cái tên rất hay đó là Hoa Sen.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-sen" }
Sự tích con trăn nhả nọc
Ngày xửa ngày xưa, có đôi vợ chồng mới cưới. Một hôm, anh chồng dẫn vợ về thăm nhà bố mẹ. Đường xa, họ phải qua những cánh rừng rộng. Ở một quãng đường rừng hai người vừa đi qua có một con Trăn trườn ra liếm vào các vết chân của hai người trên đất. Thế là hai vợ chồng vừa về đến nhà bố mẹ thì lăn ra chết. Bố mẹ anh em họ hàng đều thương xót khóc than làm tang lễ. Con Trăn biết được uy lực gớm ghê của nọc độc mình nên rất hợm hĩnh. Nó hỏi con quạ: – Này anh quạ, tôi nghe như trong làng có tiếng người kêu lao xao. Họ kêu gì vậy anh? Quạ biết Trăn có tính huênh hoang, bây giờ lại làm bộ không biết sự việc đó chính mình gây ra. Nó bảo trăn: – À, họ cười vui đấy anh Trăn! Chẳng là xưa nay người ta vốn sợ nọc độc của anh, anh chỉ liếm theo vết chân trên đất mà làm chết người được. Vậy mà vừa qua anh đã liếm vết chân của hai vợ chồng người ấy, nhưng người ta chẳng làm sao! Đấy, vì thế người ta đang cười vui với nhau. Trăn nghe quạ nói mà buồn nản và tự giận dỗi trong lòng. Nó nghĩ: – Hừ, nếu bây giờ nọc của ta không linh nghiệm như trước nữa, thì còn giữ nó làm gì? Phải nhả nó ra thôi, nhả hết! Và một bữa nọ, Trăn đã nhả hết độc của mình. Các con vật như Rắn, Rết, Bò cạp, Kiến đen, Tò vò, Ong bò vẽ… biết Trăn đã nhả nọc, chúng đua nhau đến hút lấy nọc độc của Trăn để làm sức mạnh cho mình. Một số con đến sớm hút đựơc nhiều nọc, số đến chậm đựơc ít, chậm nữa thì không kịp hút được gì. Những con vật hút được nhiều nọc nhất là Rắn bông súng, Rắn đất, Rắn cá, Rắn chạc bò, Rắn đầu, Rắn cò, Rắn hoa bôi và Rắn bắt ngoé. Vì có quá nhiều nọc nên chúng mổ vào người cũng như không, không chết cũng không đau. Đấy là do nọc nhiều quá, nó chạy lung tung lạc khắp cả người nên loãng đi mất. Trái lại những con rắn hút được ít nọc hơn như Hổ Mang, Hổ Lửa, Hổ Trâu, Cạp nong… thì rất nguy hiểm. Chúng đã cắn vào ai thì khó chữa khỏi. Một số con vật khác như Cá Trê, cá Nóc, cá Chốt, cá Lăng, kiến Gánh, Rết, Ong… đến chậm chỉ còn chút nọc đủ bôi vào miệng, vào vòi… Quá lắm cũng chỉ có thể làm người ta đau buốt chút ít. Xui nhất chính là mấy chú cá Trâm bầu và cá Trắm đến muộn quá chẳng hút đựơc tí nọc nào, ức quá phát khóc đến sưng vù mặt mũi như ta thấy ngày nay. Cá Nheo thấy thế tức cười quá cười hoài đến nỗi rách cả miệng khiến cho miệng nó rộng như ngày nay như ta thấy, và môi thì trề ra như mỏ con vịt. Nhưng thua thiệt nhất vẫn là anh Trăn nhà ta. Chỉ có tính huênh hoang, hợm hĩnh mà bị chú Quạ đánh lừa, Trăn ta đã nhả hết nọc thiêng! Từ đó con người cũng hết lo gặp nguy hiểm vì loài Trăn nữa, Trăn đã trở nên loài vật hiền lành.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-tran-nha-noc" }
Mèo dạy Hổ
Lúc nào Hổ cũng vênh váo tự xưng mình là chúa tể sơn lâm. Nó khoe bộ vuốt sắc, bộ nanh nhọn có thể cào rách và cắn thủng bộ da của con voi già hàng trăm tuổi. Nó khoe có bàn tay khỏe có thể tát chết tươi bất cứ con vật nào, và có tiếng gầm rung trời lở đất, làm lở đá rừng, làm bật rễ cây cổ thụ, làm gãy cổ diều hâu, làm gãy cánh chim đại bàng. Tính tình của Hổ thì lại không tốt lắm, nó hung dữ, xảo quyệt hay gây sự, hay lật lọng và thường rình mò ăn thịt các loài chim thú. Mọi thú vật chim chóc trong rừng thường xa lánh Hổ. Cứ nghe tin Hổ ở đâu là các loài vật vội trốn chạy. Hổ sống lủi thủi một mình thấy rất buồn. Nó muốn kết bạn nhưng chẳng loài nào chịu chơi với Hổ cả. Một hôm, trong lúc buồn tủi, Hổ thẫn thờ đi trong rừng ngẫm nghĩ về cuộc đời của mình thì gặp Mèo. Xưa nay nghe nói mèo tinh thông pháp thuật, võ nghệ cao cường, Hổ rất mong kết bạn với mèo để học một chút võ nghệ mong dễ bề kiếm ăn. Mèo đi đứng khoan thai, dịu dàng, chân bước êm như ru, nhảy xa không một tiếng động. Mèo vồ mồi nhanh và rất nhạy, nó không bao giờ vồ lung tung mà chỉ bắt những con vật có hại như chuột hoặc chim cắt. Hổ rất muốn kết bạn với Mèo. Sau khi nghe Hổ giãi bày tâm sự, Mèo cũng vui lòng làm bạn với Hổ. Nhưng khi vừa gần gũi được với Mèo, Hổ đã nảy sinh ý định xấu, thừa lúc Mèo đang vui vẻ trò chuyện không có ý đề phòng, Hổ nhảy đến vồ Mèo định ăn thịt. Nhưng Mèo tinh ý nhanh nhẹn nhảy tránh được. Mèo trợn đôi mắt sáng quắc lên nghiêm nghị: - Anh quả là một người không tốt. Vừa mới xin kết bạn mà anh đã giở ngay cái thói lật lọng ti tiện đê hèn ra. Nhưng nói trước, anh không thể làm gì được tôi đâu. Tôi nhỏ bé hơn anh nhưng có thể đạp gẫy cổ anh đấy. Liệu mà giữ thân! Biết mình kém tài Mèo, Hổ hết lời phân trần cho đỡ ngượng: - Tôi chỉ muốn thử xem võ nghệ của anh có giỏi không, có giống những gì người ta đồn đại không! Thật lòng, anh bạn Mèo thân mến ạ, tôi không có ý định ăn thịt anh đâu, tôi rất muốn kết bạn với anh mà. Rồi quay ra nịnh nọt: - Anh quả thật giỏi võ hơn người. Trong thiên hạ này chẳng ai có thể làm gì được anh. Tôi xin bái phục, bái phục. Mèo nghiêm nghị vuốt râu nói: - Xưa nay anh có tiếng là kẻ luôn lật lọng tráo trở. Mồm lúc nào cũng nói những lời ngon ngọt tử tế nhưng trong bụng đầy rẫy những âm mưu. Nếu thật lòng muốn kết bạn với tôi thì anh hãy thề bỏ cái tính nghĩ một đằng làm một nẻo đi. Thấy Mèo lúc nào cũng ôn tồn, nghiêm nghị, Hổ không dám giỡn mà dịu giọng tha thiết nói: - Anh Mèo ơi, tôi thật lòng muốn kết bạn lâu dài với anh. Tôi đã nói với anh rằng trên đời này không ai có thể sống trơ trọi một mình, anh bắt tôi phải thế nào cho vừa lòng anh đây. Mèo thấy Hổ kể ra cũng đáng thương, suốt ngày phải lủi thủi một mình vì không có ai chơi cùng, Mèo dịu dàng bảo: - Thôi được, tôi đồng ý kết bạn với anh. Nhưng anh phải thề không bao giờ được đùa cợt với mèo và không được vồ mèo ăn thịt. Nếu sai lời thề anh sẽ phải chịu hình phạt nặng nề. Hổ vội rối rít: - Tôi xin thề, xin thề mà! Thấy Hổ thề rối rít Mèo cũng vui lòng kết bạn với Hổ, Mèo hứa sẽ dạy Hổ các món võ nghệ, phép thuật của mình. Hổ mừng lắm. Mèo nhiệt tình dạy, Hổ hăm hở học. Nhưng vốn ngu đần cộng với trong đầu còn vướng nhiều điều đen tối nên Hổ học rất chậm. Mèo kiên nhẫn chỉ bảo từng miếng võ, từng bước tiến bước lùi. Thế nhưng gần một tháng trôi qua mà Hổ mới thuộc lơ mơ vài đường cơ bản. Mèo thì vẫn kiên trì dạy còn Hổ thấy học lâu thì sốt ruột lắm. Một hôm Hổ hỏi Mèo: - Tôi học đến nay đã vừa tròn tuần trăng, bạn cũng dạy tôi khá nhiều rồi. Vậy xin hỏi bạn Mèo chẳng hay bằng ấy miếng võ tôi đã đủ vốn để dùng chưa? Thực ra Mèo mới truyền cho Hổ được một vài món cơ bản nhưng món nào Hổ cũng lơ mơ. Thấy Hổ sốt ruột, Mèo cũng cười ôn tồn; - Bạn học như vậy thì chưa thành tài đâu, đây mới chỉ là vài bài đầu, bài nào bạn học cũng chưa chọn vẹn. Nhưng nếu bạn thấy học lâu quá thì với từng ấy món võ bạn có thể đi kiếm ăn được rồi đấy. Sau này bạn phải luyện tập hàng ngày mới khá được. Khi nào muốn học thêm thì hãy đến đây. Hổ mừng lắm, nó hài lòng với những gì đã học. Nhìn thấy Mèo béo mập, múp míp, Hổ không thể từ bỏ ý định đen tối. Giả vờ nhờ Mèo giúp ôn lại những thế võ đã học, lợi dụng thời cơ Mèo đang say sưa chỉ bảo Hổ nhảy bổ đến định vồ lấy Mèo nhưng vồ hụt. Mèo tinh ý nhanh nhẹn tránh được và đạp một cái thật mạnh vào cổ Hổ rồi lao thoăn thoắt lên ngọn cây. Mèo mắng Hổ: - Mày là hạng xấu bụng. May mà tao chưa truyền hết võ nghệ cho mày. Mày không đáng là bạn của tao. Bị Mèo đạp một cái vào cổ đau điếng đến mức không thể ngẩng đầu lên được nhưng Hổ vẫn giả vờ làm ra vẻ bình thường, cố lấy giọng tự nhiên đáp: - Tôi đang ôn lại những món võ mà bạn dạy cho tôi đấy chứ. Tôi đâu có ý xấu như vậy, bạn đừng có vội trách tôi vì tôi giữ đúng lời thề mà. Mà, bạn dạy thêm món võ trèo cây đi. Mèo quắc mắt: - Đồ dối trá, lừa thầy phản bạn. Tao không cao tay tỉnh táo thì đã trở thành miếng mồi ngon của mày rồi. Mày hãy cút về rừng sống cô độc với cái bụng dạ xấu xa của mày đi. Cút ngay đi nếu không tao đạp cho cái nữa thì toi mạng. Hổ cụp đuôi, cúi mặt, lủi thủi bước đi. Từ đó trở đi bao giờ Hổ cũng cúi mặt như thế mà đi. Và cũng chẳng có một loài vật nào chịu kết bạn với Hổ nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/meo-day-ho" }
Ba cái chuồng trâu
Ngày xưa có ba cô gái con nhà giàu được bố mẹ yêu quý nuông chiều hết mực. Ba cô lớn như thổi và ngày càng xinh đẹp. Hai cô chị lấy chồng giàu. Cô Út lấy chồng nghèo. Ba cô lần lượt ra ở riêng. Bố mẹ chia đều ruộng vườn cho các con nhưng còn giữ lại một đàn trâu một trăm con chưa chia. Cô Cả và cô Hai cô nào cũng thuê người về làm tất cả mọi việc lớn nhỏ ngoài đồng, trên nương. Ngày ngày, công việc duy nhất của họ là đua đòi ăn mặc, soi gương ngắm vuốt. Cô Út thì trái lại. Ra ở riêng, hai vợ chồng cô cố công dốc sức làm ăn. Họ thức khuya dậy sớm, chăm chỉ làm việc nhà, việc đồng áng. Đến ngày mùa, họ gánh nhiều lúa, ngô, khoai, gà, vịt, lợn, dê ngày càng chật chuồng. Ba năm trôi qua. Hai vợ chồng cô Út đã có của ăn của để. Còn hai vợ chồng cô Cả, cô Hai đã có phần túng bấn. Họ bắt đầu bán dần ruộng đất để tiêu pha. Tuy vậy họ cũng vẫn chưa chịu làm lụng gì cả. Đến lúc ruộng đất bố mẹ chia cho đã bán gần hết, cô Cả, cô Hai xin cha mẹ chia trâu, cũng nhằm để bán dần. Hai ông bà không nỡ từ chối con. Ông bèn bảo ba chàng rể và ba cô con gái rằng: – Đàn trâu có một trăm con, ta không biết chia thế nào cho đều được. Bây giờ thế này: Vợ chồng các con, mỗi nhà làm một cái chuồng trâu ở gần chuồng cũ. Lúc nào ba chuồng mới làm xong thì ta sẽ đóng chuồng cũ lại. Khi về chuồng, trâu sẽ tự động về chuồng của các con. Lúc ấy, chuồng nào có bao nhiêu con thì sẽ được bằng ấy. Như vậy là đàn trâu tự chia, chứ không phải do cha mẹ. Ông lại tiếp: – Nếu các con ưng thuận thì ta hẹn trong mười ngày các con phải làm xong chuồng. Sáng hôm sau, họ bắt tay vào việc. Chàng rể cả và chàng rể hai không quen lao động, phải đón thợ về làm, và phải trả công rất đắt. Đến chiều ngày thứ chín, hai cái chuồng trâu đều xong. Chuồng nào cũng có những cây cột to bằng người ôm, bào nhẵn bóng, mái lợp ngói, nền chuồng lát đá phẳng lỳ, quét sạch như lau. Hai bên cửa chuồng dán hai câu đối đỏ. Nhìn hai cái chuồng trâu cao ráo, tinh tươm, hai vợ chồng cô Cả và Cô Hai mừng thầm phấn khởi, chờ ngày đón trâu. Trong khi hai anh chị cùng hai anh rể đi ra đi vào, xem xét thợ làm việc thì vợ chồng cô Út tự tay ngả cây, đẽo cột, chặt xà, cắt gianh để làm chuồng trâu của mình. Hai người động viên nhau gắng làm xong cho đúng hẹn. Thấy hai vợ chồng cô em làm việc vất vả, các anh và các chị tỏ ý coi khinh. Hai vợ chồng cô Út làm mãi tới sáng ngày thứ mười mới lợp xong mái gianh. Nhìn cái chuồng Trâu của em, hai anh rể và hai chị chê bai hết lời. Đúng ngày hẹn, ông bố ra đóng cửa chuồng cũ lại. Chiều đến, đàn trâu về. Hai vợ chồng cô Cả và cô Hai nhìn đàn trâu rồi nhìn cái chuồng của mình, lòng chứa chan hy vọng. Trâu qua chuồng cũ, cửa chuồng cài chặt, không vào được. Chúng tản ra, tìm vào ba cái chuồng trâu mới. Đàn trâu nghiêng ngó, nhìn hai cửa có dán giấy đỏ, vội vàng ù chạy nhốn nháo. Thấy con trâu đầu đàn đang ăn cỏ trong chuồng trâu của cô Út, chúng tranh nhau theo vào và cũng tranh nhau ăn rơm, ăn cỏ. Chỉ một lúc sau, tất cả đàn trâu chen nhau vào chật ních cả chuồng của cô Út. Vợ chồng chị Cả và chị Hai nhìn nhau chưng hửng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-cai-chuong-trau" }
Cái sọt
Ngày xửa ngày xưa ở một làng kia có một gia đình nghèo khó. Nhà có bốn người: hai vợ chồng, đứa con trai nhỏ tuổi và ông bố chồng đã già. Năm tháng ròng rã, ông bố phải làm lụng vất vả, giờ đây đã quá già yếu không còn cất nhắc được việc gì. Vì vậy ông phải hoàn toàn sống dựa vào con trai và nàng dâu. Họ coi ông là một gánh nặng. Ngày tháng trôi qua, ông già càng ngày càng trở thành mối lo ngại cho họ. Ông cụ cần được chăm sóc nhiều. Nhưng cả nàng dâu lẫn con trai đều không đỡ đần ông gì cả. Ông phải ăn những thức ăn thừa và mặc bất cứ thứ quần áo cũ nào. Ông luôn luôn bị đói và rét. Lắm khi đứa cháu trai quá xót xa ông nội, đã sẻ phần thức ăn riêng của nó cho ông. Nhưng mỗi khi trông thấy thế bố mẹ nó lại rầy la và cấm nó không được phung phí thức ăn ngon. Ông già rất đau khổ về cách cư xử của hai vợ chồng đứa con, ông thường than phiền oán thán. Nhưng đáng lẽ phải tìm cách an ủi ông, hai vợ chồng nhà ấy vẫn thường lập lại cho nhau nghe câu phương ngôn cổ "Bò già sa vó, ông bọ sẩy mồm". Sự việc này ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Ông già càng làm om sòm bao nhiêu thì nàng dâu với con trai ông càng khó chịu bấy nhiêu. Cuối cùng, họ không thể chịu đựng nổi ông già nữa. Chúng bí mật bàn mưu tính kế tống khứ ông già đi. Chúng định mang ông đến một nơi thật xa, và bỏ ông ở đó. Người chồng cho biết hắn sẽ ra chợ mua một cái sọt bằng tre cứng cáp đơn sơ để bỏ ông vào đó mang đi. - Ta sẽ mang ông lão đến một nơi thật xa, khiến ông lão không còn lần ra đường về. Ta sẽ bỏ ông lão dưới gốc cây sát lề đường đi. Thế rồi có thể có người cảm thấy xót thương mà đưa ông lão về nuôi. - Người chồng bàn tính. - Nhưng còn đối với bà con hàng xóm thì sao? - Người vợ nói: - Chẳng bao lâu họ sẽ biết ông cụ không còn ở đây nữa. Chúng ta phải ăn nói với họ như thế nào khi họ hỏi? - Thì cứ nói rằng ông cụ đòi đến vùng đất thánh, ở đấy ông cụ có thể sống yên ổn cho đến lúc chết. - Người chồng trả lời. Thế là họ sắp định âm mưu. Nhưng họ không biết rằng đứa con nghe lỏm được câu chuyện họ bàn tính với nhau. Ngay khi cha nó vừa đi chợ mua sọt nó hỏi mẹ: - Mẹ ơi! Tại sao bố lại vứt bỏ ông đi? - Không! không! - Mẹ nó vội vàng trả lời. - Chúng ta không định vứt bỏ ông đâu! Dĩ nhiên là chúng ta không làm thế. Con xem, ở đây chẳng có ai chăm sóc ông được chu đáo, bởi vì cả cha con và mẹ đều tất bật làm lụng suốt ngày. Do đó cha con định đưa ông nội đến một nơi ông được chăm nom tử tế hơn thôi. - Chỗ ấy là ở đâu vậy mẹ? Đứa con hỏi. - Ồ, xa lắm, xa lắm. Đó là một nơi con chẳng thể nào biết được. - Thế ai sẽ đến chăm sóc ông? - Con không phải lo. Có rất nhiều người hảo tâm sẽ chăm sóc ông. Người mẹ nói để đứa con yên tâm. Chiều tà, người chồng về mang theo một chiếc sọt lớn. Không muốn cho hàng xóm biết chuyện mình làm, anh ta đợi đến tận đêm, khi trời tối mịt mới đặt ông bố vào cái sọt. - Con định làm gì thế này? Ông già hoảng hốt hỏi con. Con đặt ta vào trong cái sọt này mang đi đâu? - Thưa bố, bố biết đấy, hai vợ chồng nhà con chẳng thể chăm nom bố được nữa. Vì vậy con định đưa bố lên miền đất thánh, ở đấy bố sẽ được mọi người đối xử tốt hơn. Người con đáp. Nhưng ông già không bị mắc lừa. Ông hiểu ngay vợ chồng nhà ấy định làm gì ông. - Đồ bất hiếu! - Ông quát: Thử nhẩm xem, bao nhiêu năm qua tao nuôi mày cho đến ngày khôn lớn. Và bây giờ thì mày trả nghĩa cho bố mày như thế đấy! Ông bắt đầu hét to, chửi mắng con trai và nàng dâu. Con trai nổi giận. Anh ta giật một cái, nâng phốc cái sọt lên lưng, xăm xăm đi ra khỏ nhà. Đứa cháu nhỏ im lặng theo dõi tất cả mọi việc xảy ra. Vừa hay khi cha nó sắp khuất dạng trong đêm tối, nó gọi to bảo cha nó: - Bố ơi! Bố ơi! Khi nào bố đem vứt ông xong, bố nhớ giữ cái sọt cẩn thận và mang nó về cẩn thận nhé! Bối rối trước câu nói của con, anh ta dừng bước, ngoảnh lại hỏi: - Để làm gì hả con? Đứa bé ngây thơ trả lời: - Nhà ta còn cần đến cái sọt to ấy để khi nào bố già con mang vứt bố đi! Nghe đứa bé nói, chân anh ta đâm loạng choạng. Không biết làm sao, anh ta chẳng thể bước thêm một bước nào nữa. Thế là anh ta quay lại và đưa người bố già trở về nhà.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cai-sot" }
Sự tích hoa hồng bạch
Câu chuyện này xảy ra vào thời mà những khu vườn còn ngập tràn cỏ dại, các loài hoa rất hiếm và chưa có hương thơm, còn hoa hồng chỉ có một màu đỏ thắm. Ở một làng quê nọ, nơi một dòng sông nối liền với biển, có hai đứa trẻ chơi rất thân với nhau, cô bé có mái tóc dài đen mượt, còn tóc cậu bé màu vàng tơ. Buổi sáng tinh mơ, khi mặt trời còn chưa tròn, hai đứa trẻ đã cùng nhau vui đùa trong sóng biển hay mải mê tìm kiếm những viên đá màu xanh. Buổi chiều muộn, lúc mặt trăng đã hiện dần vành vàng nhạt màu, cả hai vẫn còn ở trong rừng hái cho nhau những chùm quả dại ngọt lịm. Tháng ngày như thế trôi qua, nhưng chưa bao giờ cậu bé được nghe giọng nói của cô bé, vì cô bị câm từ thuở nhỏ. Và thay vì kể chuyện cho cô, cậu hát cho cô nghe những bài ca cuả những dân du mục thường cưỡi ngựa qua làng, những bài ca của những người đánh cá khi cả đoàn thuyền kéo về những con cá lớn, những bài ca về câu chuyện dòng sông… Hai đứa trẻ dần lớn lên, và rồi cậu bé đi học việc theo đoàn thuyền đánh cá, còn cô bé ở nhà với bố mẹ làm vườn. Cậu vẫn thường hát cho cô nghe, nhưng những sáng tinh mơ mặt trời hay những chiều tà mặt trăng không còn nữa. Ngày cậu bé tròn mười lăm tuổi, đoàn thuyền đánh cá mở hội gia nhập cậu. Suốt một ngày sẽ vui chơi, và buổi tối các cô bé sẽ tặng cậu hoa để rồi sớm hôm sau, cậu sẽ theo đoàn thuyền ra khơi. Chiều hôm ấy, có cô bé tóc vàng con một người đánh cá đến hỏi cô phải làm gì. Và cô rủ cô bé ấy đi tìm hoa vì cô biết những khu vườn nhiều hoa đẹp nhất. Nhưng vào mùa hè nóng bỏng ấy, ánh nắng chói chang đã làm khô đi nhiều cây cối, suốt buổi chiều bọn trẻ đi rất xa mà chỉ tìm được vài bông hồng nhỏ. Khi mặt trời dần lặn, hai cô bé sợ lạc, và cô bé tóc vàng đứng lại trên con đường nhỏ đợi những bác thợ đi qua để hỏi lối về. Còn lại một mình, cô bé tóc đen vui chạy như một cánh chim từ vườn này sang vườn khác, cô rẽ từng khóm lá, từng rặng cây để tìm chọn. Một làn gió dịu dàng, man mát bỗng đưa bước chân cô đến một vườn hoa, nơi một khóm hồng đỏ thắm như đang chờ đợi. Ôm vào ngực những nụ hồng chúm chím, cô lặng mình hôn lên những cánh hoa. Lạ kỳ làm sao, những bông hoa bỗng tỏa hương thơm ngọt ngào, dịu nhẹ. Vui sướng, cô nhắm mắt và thầm nghĩ “cám ơn trời, trời đã ban cho bạn những bông hoa này qua tôi”, và nước mắt cô chảy dài trên má, khẽ rơi xuống những cánh hoa. Khi mở mắt, cô ngây người đi trước vẻ đẹp lạ lùng của những bông hoa. Nước mắt cô đã làm phai đi màu đỏ, những cánh hoa bên ngoài đã mang sắc trắng, và bên trong phơn phớt màu hồng. Những nụ hoa thẹn thùng, trong trắng như e ấp, dịu dàng trên ngực cô, trong vòng tay cô. Khi cô quay trở lại, cô bé tóc vàng đã hỏi được đường về, và cả hai cùng chạy đến nhà cậu bé. Đến gần khu vườn nhà cậu, mái tóc của cô bay theo gió và vướng vào bụi gai, cô càng gỡ càng thêm rối. Đưa cho cô bé tóc vàng bó hồng, cô giữ lại cho mình một nụ hoa, nụ hoa bé nhỏ nhất. Đứng sau lùm cây, cô bé như nghe thấy tiếng hát của cậu bé, và bên những cành lá rì rào trong gió, cô tưởng tượng nụ cười thân thương của cậu, nụ cười của mặt trời những sáng tinh mơ và mặt trăng những khi chiều tà. Nụ hồng của cô bé đã nở ngày hôm sau và bên cô luôn có hương thơm thoang thoảng. Rồi một sớm tinh mơ, khi mặt trời còn chưa tròn, cô bé đem cành hồng ra vườn trồng. Sáng sáng cô tưới chút nước và chăm sóc cho cây hồng bé nhỏ của mình. Mùa hè qua đi, mùa thu rồi hết mùa đông, khi mùa xuân đến, cô bé mừng vui thấy những nụ hồng đầu tiên chúm chím hé nở. Và dù cô bé không còn hôn lên những nụ hoa, dù nước mắt cô không bao giờ còn chảy trên những cánh hoa, thì kỳ diệu thay, những bông hồng mới vẫn mang hương thơm dịu ngọt và màu trắng phớt hồng. Từ đó loài hoa hồng bạch ra đời.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-hong-bach" }
Sự tích con Mèo
Ngày xưa, có hai chị em hổ đói bụng dẫn nhau đi kiếm ăn. Lúc này đang là mùa đông gió rét, sương gió lạnh cắt da, cắt thịt. Rét đến mức chẳng có con thú nào chịu ra khỏi tổ nên hai chị em hổ không thể kiếm được thức ăn. Phải chịu đói nhiều ngày hai chị em hổ mệt lử, chân tay run lẩy bẩy. Một đêm mưa gió, rét mướt, hai chị em hổ cùng vượt rừng đi kiếm cái ăn. Từ xa hai chị em trông thấy một ngôi nhà sàn gần đấy đang bập bùng ánh lửa. Một bà cụ già đang đun nấu gì đó, lửa than cháy hồng rực. Hai chị em cảm thấy ấm áp hẳn lên. Nằm sát bên nhau Hổ em thủ thỉ: - Chị ơi, ước gì hai chị em mình có được ít lửa đỏ để sưởi ấm như cậu bé kia thì thích nhỉ. Hổ chị chăm chú nhìn bà cụ bóc bánh nóng cho cháu ăn. Nghe hổ em nói hợp với ý mình liền bàn với em: - Em nói phải đấy, người ra đang đun nấu gì đó, có nhiều lửa lắm, em vào xin đi. Nhìn thấy cái thang bắc lên nhà quá cao, hổ em e ngại nói: - Chị ơi, chị khỏe mạnh cứng cáp, hay chị đi xin lửa đi. Em yếu thế này chắc không trèo lên được cái thang kia đâu. Chị vào xin lửa, nếu xin được chút bánh ăn thì tuyệt quá. Hai chị em cứ bàn đi, bàn lại, đùn đẩy nhau. Mãi tới canh khuya, khi lũ chó canh nhà đã ngủ, cả nhà im lặng chỉ còn ánh lửa bập bùng, Hổ em quyết định xuống xin lửa. Trời khuya, sương lạnh, Hổ em dò dẫm từ trên núi đá xuống, mò được lên đến nhà thì đã ướt sũng, lông bết vào nhau, thân hình nhỏ xín, tiều tuỵ. Bà cụ chợt tỉnh giấc, nhìn thấy con thú con tội nghiệp lạc vào nhà lấy làm lạ. Bà bế nó đến bên bếp lửa sưởi ấm, lấy ít bánh cho nó ăn. Nghỉ ngơi hong khô mình, Hổ con ra dáng là một chú Hổ xinh đẹp. Chú xin bà cụ một ít lửa mang về cho chị. Lúc đó, chợt thấy tiếng chó sủa vang, các con chó thi nhau sủa, Hổ chị sợ quá vội vàng ba chân bốn cẳng phóng một mạch vào rừng. Một lúc sau, tiếng chó sủa đã im, Hổ em xin được lửa quay trở lại thì không thấy chị mình đâu nữa. Chờ mãi chẳng thấy chị mình trở lại, nó đành đem lửa trả bà cụ. Hổ em xin ở lại nhà bà cụ sưởi ấm chờ hôm sau đem lửa về cho chị. Từ ngày sống ở nhà bà cụ, Hổ em luôn tỏ ra ngoan ngoãn hiền lành, suốt ngày nó nằm bên bếp lửa để tránh bị những con chó bắt nạt. Trông thấy con vật nhỏ bé lông vàng, xinh đẹp, ngoan ngoãn, những đứa cháu bà cụ yêu thích lắm. Chúng luôn cho chú Hổ con ăn lúc thì mẩu thịt, lúc thì khúc cá, Hổ con lúc nào cũng được no nê, khò khè nằm cạnh bếp. Có đôi lúc nó nhớ chị, nhớ rừng nó cất tiếng kêu "meo meo" nho nhỏ khiến cho lũ cháu bà cụ càng yêu nó hơn. Vì thế chẳng bao giờ Hổ em được tự do để trở về rừng tìm chị. Nhiều đêm Hổ chị qua làng tìm em nhưng những con chó quanh nhà cắn dữ quá, nó sợ không dám vào. Một hôm, thấy nhà bà cụ yên ắng quá, Hổ chị mạnh dạn mò vào thì thấy Hổ em đang ngủ ngon lành bên bếp lửa hồng. Hổ chị khe khàng cất tiếng gọi em:" Miao, miao". Hổ em tỉnh giấc, chưa kịp đáp lại thì lũ chó đã ngửi thấy mùi của Hổ chị sủa ầm lên và định vồ hổ chị. Sợ quá Hổ chị co chân chạy thẳng một mạch về rừng. Từ đó hai chị em Hổ không còn có dịp nào gặp nhau nữa. Hổ chị sống hẳn ở trong rừng không còn về làng nữa vì nó yên tâm em mình đã có được một nơi ấm áp tử tế. Còn nó sống trong rừng ngày đêm đi săn mồi, ngủ hang, sống thui thủi một mình. Hổ em dù được no bụng nhưng suốt ngày ăn cơm gạo, không có thịt sống nên không thể lớn được. Nó trở thành mèo nhà chỉ còn bắt chuột và suốt ngày nằm khò khè bên bếp lửa. Người ta bảo, ngày nay, Hổ không bao giờ vồ Mèo vì Mèo là em út của Hổ...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-meo" }
Mẹ chồng buộc tội nàng dâu
Ngày xưa ở tỉnh Thái nguyên miền Bắc, có một bà mẹ chồng sống với nàng dâu, cả hai đều góa chồng. Bà mẹ chồng đang còn trẻ, không muốn ở vậy, nên thường lén lút đi lại với một người hàng xóm. Nàng dâu biết chuyện, ghét cả 2 người, tìm cách ngăn cản họ gặp nhau. Bà mẹ chồng bèn kiếm kế dịu ngọt để đuổi nàng đi., song nàng dâu cứ nhất quyết ở lì để khuấy phá mối tình vụng trộm của mẹ chồng. Không làm gì được nàng dâu, bà mẹ chồng tức tối đi thưa quan, vu cho nàng dâu rước trai về nhà. Quan hỏi đến tên người đàn ông, bà mẹ chồng trả lời không biết, vì y đến ban đêm và chưa sáng ngày đã đi, cứ hỏi nàng dâu thì rõ. Quan cho đòi nàng dâu tới, nàng dâu trỏ ngay người đàn ông hàng xóm, nói quyết là y đã đến với bà mẹ chồng. Người đàn ông hàng xóm bị bắt đến đối chất với 2 người đàn bà, y nhất định chổi là không có đi lại với người nào cả, y nói rằng bà mẹ chồng và nàng dâu gây gỗ rồi đổ thừa hại lẫn nhau đó thôi. Quan nói: - Tại sao trong làng có hơn một trăm đàn ông mà lại buộc riêng cho một mình anh? Người hàng xóm bị nọc ra đánh, bèn khai là mình đã đi lại với nàng dâu. Quan huyện cho đóng gông nàng dâu lại, mặc dầu cô ả một mực kêu oan. Nàng dâu đưa việc thưa lên tỉnh để xin thẩm xét. Trong lúc nội vụ đang lòng vòng thì có một viên quan mới bổ nhiệm đến. Sau khi cho gọi cả 2 người lên hỏi qua loa, ông huyện mới bảo giam lại, ra lệnh sằm sửa đá với dao để ngày mai xử nội vụ. Các nhân viên ở nha không khỏi lấy làm lạ, tự hỏi rằng huyện đường thiếu gì công cụ tra tấn mà lại đi kiếm thêm ở ngoài nữa. Ngày hôm sau ông quan mới ra công đường, bảo đem đá với dao tới sẵn. Rồi cho gọi người đàn ông hàng xóm cùng 2 người đàn bà góa lên. Sau vài câu hỏi, quan bảo bà mẹ chồng và nàng dâu rằng: - Việc này không cần phải tra hỏi lâu la gì nữa. Đã có bằng chứng chắc chắn về tội người đàn ông rồi. Tôi cho là cả 2 người đều vô tội, chẳng qua bị tên kia mưu đồ làm hại, vậy xử một mình nó phải chịu hết mọi hậu quả. Đá dao đã sẵn sàng cả kia, tôi cho phép 2 người cứ vác đá mà ném, lắy dao mà xẻo cho nó chết cách nào cũng được. Thấy 2 người đàn bà sợ mang tội giết người, viên quan nói: - Các người đừng sợ gì cả, đã có tôi chịu hết mọi trách nhiệm. Hai người đàn bà chạy đến đống đá, nàng dâu vốn sẵn thù ghét chồng chất bấy lâu, cả hai tay lượm những hòn đá lớn nhất, ném mạnh vào người đàn ông, muốn cho trúng chết ngay mới hả giận. Bà mẹ chồng trái lại, chỉ nhặt các viên đá nhỏ mà ném nhẹ vào chân người đàn ông hàng xóm. Đến khi quan bảo đưa dao cho 2 người xẻo thịt thì bà mẹ chồng thụt lùi lại. Viên quan nói: - Thôi, đủ rồi, bây giờ ta đã rõ ai là thủ phạm. Bà mẹ chồng bị nọc ra đánh, liền khai ngay cả sự thật.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/me-chong-buoc-toi-nang-dau" }
Sự tích áo Bà Ba
Ngày xưa, từ vua quan đến người thường không phân biệt trai hay gái, điều mặc áo dài đúng theo cổ tục. Có một anh đánh cá ở ven biển rất nghèo túng mà vẫn phải mặc áo dài đàng hoàng như mọi người. Vì  nghèo quá, túng trước hụt sau, cái áo dài rách thêm hoài, chẳng những không tiền để may áo khác mà còn không có vải vụn để vá làm cho cáo áo có đốm có khoang như cái mai rùa. Một hôm anh đang mặc cái áo cà khổ ấy đi dọc theo mé biển kiếm nơi đánh cá, thình lình nghe tiếng quân lính la ó vang dậy. Nhìn xa xa thấy cờ xí rợp trời, quan quân rầm rộ, anh sợ quá không biết làm sao. Từ chỗ anh đứng lội lên bờ thì quá xa, không thể nào chạy kịp. Trong lúc lính quýnh, chân lún sâu xuống bùn, anh phải chống hai tay xuống để rút chân lên, nhưng không được. Lúc đó vua quan đã đến gần, thấy anh mặc cái áo ngắn bị bùn khô dính dày cứng, màu móc thích, búi tóc vãn lênnhòm nhọn, trông xa anh giống như một con rùa to tướng. Thấy lạ nhà vua truyền lính dừng chân ghé lại. Vua sai quân lính vội xuống bắt con vật ấy lên cho vua xem. Anh nghe toán lính vừa chạy vừa bàn tán: người thì bảo là con rùa, kẻ thì bảo là con ba ba, cãi nhau um sùm. Đến khi lại gần họ hết sức ngạc nhiên và bắt anh để trình vua. Anh run sợ, mếu máo nói rõ hoàn cảnh của mình. Nhà vua thương hại mỉm cười bảo: – Khanh đừng sợ! khanh không có tội gì đâu! Thế mà khi nãy trẫm ngỡ là con ba ba chớ đâu có ngờ khanh lại mặc cái áo   “ba ba”! Đoạn nhà vua đem vàng bạc, gấm vóc ban tặng cho anh đánh cá. Anh tạ ơn vua ,về nhà lòng mừng khấp khởi. Nhờ số vàng bạc ấy, anh trở nên khá giả và anh vẫn giữ kỹ cái áo “ba ba” để có dịp là đem ra khoe với hàng xóm bạn bè. Từ đó về sau, trong dân gian nhiều người nghèo khổ cũng bắt chước anh may áo ngắn để mặc cho đỡ tốn vải và cũng kêu là áo “ba ba”. Kiểu áo “ba ba” lần lần được nhiều người dùng vì nó gọn gàng,  xoay trở không bị vướng víu khi làm lụng. Dần dần trong giới nữ thấy kiểu áo “ba ba ” gọn gàng và thanh lịch, kín đáo nên cũng may mặc. Các chàng trại thấy các cô mặc áo bèn gọi là: “bà ba”. Từ đó hễ đàn ông con trai mặc thì gọi là áo “ba ba”, còn đàn bà, con gái mặc thì gọi là áo “bà ba”. Lâu dần người ta quên đi mất sự tích “ ba ba” mà chỉ gọi là áo bà ba. Trải qua bao năm tháng, cái áo bà ba trở thành thông dụng phổ biến và lưu truyền đến ngày nay ở toàn vùng Nam bộ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ao-ba-ba" }
Sự tích Ông Năm Chèo
Truyện kể rằng, khi Phật Thầy Tây An còn tại thế, ông Đình Tây là người thường hầu hạ bên ngài. Một hôm Phật Thầy vì lòng hiếu sinh, đã kêu ông Đình xuống Láng để đỡ đẻ cho một sản phụ trong khi người ấy chỉ ở một mình trong căn chòi giữa đồng. Chồng của sản phụ, tên là Xinh, sống bằng nghề săn rùa, bắt rắn, biết ông Đình giúp đỡ cho gia đình mình như vậy thì lạy tạ ơn, đồng thời biếu ông Đình một con sấu con vừa bắt được trong đêm tối. Ông Đình thấy con sấu dị thường, có năm chân, toàn thân một màu đỏ với những lốm đốm bông hoa, nên nhận và quyết định trả tiền cho Xinh để đem về nuôi chơi. Phật Thầy xem qua con sấu, bảo là quái vật, phải trừ đi kẻo về sau gây họa lớn. Nhưng thương con sấu quá, ông Đình nghĩ cách giấu Thầy để đem về trại ruộng Xuân Sơn nuôi chơi. Sấu có sức lớn phi thường, chỉ trong ba năm mà nó có thể quật ngã được người. Và sau một đêm dông mưa lớn, con sấu năm chân bứt gãy xích sắt mà đi. Ông Đình nhớ lại lời Thầy mấy năm trước, sợ hãi về trách nhiệm, nên đến chịu tội với Thầy. Ngài tỏ ý buồn bã và sau đó trao cho ông Đình một cây mun, một lưỡi câu và hai cây lao, tất cả đều làm bằng sắt và dặn ông Đình cất giữ để dành trừ con quái vật một khi nó làm hại sinh linh. Thời gian trôi qua, Phật Thầy viên tịch, bỗng một mùa lụt, sấu trườn lên tại Láng Linh, rượt bắt thiên hạ làm náo động cả vùng. Người ta đến báo với ông Đình. Ông Đình mang bửu bối tới. Nhưng sấu dường như nghe được hơi ông Đình. Nên đã biến mất dạng. Từ đó như cút bắt vậy, hễ ông Đình vắng thì sấu hiện ra, mà khi ông tới, nó không dám hành động. Biết như vậy, nên mỗi khi sấu làm sóng dậy miền Láng Linh, người ta đồng rập la lên: - Bớ ông Đình ơi! Ông Năm Chèo dậy! Hễ cứ nghe câu đó thì sấu chạy ngay đuôi, dẫu gặp mồi ngon trước mặt cũng không dám ở! Đã nhiều phen lui tới vùng Láng Linh để chực bắt quái vật mà không lần nào gặp nó, ông Đình lần sau chót, kêu nói giữa hư không rằng: - Nếu sấu chưa tới số, thì từ nay nên yên lặng, đừng nổi lên phá hoại xóm làng. Còn như mạng căn đã hết, thì hãy sớm chịu oai trời, đừng để phải phiền ta! Sau ngày ấy, sấu đi đâu mất! Có người nói khi Tây bố binh Gia Nghị, nghĩa quân rút lui nhưng vì lúa dày quá thuyền chống không đi, ông Năm Chèo xuất hiện làm lúa rạp một luồng cho thuyền theo đó mà chống.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ong-nam-cheo" }
Sự tích hoa ngô đồng
Ngày xửa ngày xưa tại một vùng nào đó có một người đàn ông đánh đàn rất hay. Tiếng đàn của người đàn ông hay đến nỗi ai nghe thấy cũng đều phải khen ngợi. Người đàn ông có một cây đàn hình dạng năm cánh và khi ông gãy đầu có đủ các cung bậc của cảm xúc như vui, buồn, giận, hờn,… Đi đâu cây đàn cũng luôn được ông mang theo. Ông luôn muốn mình gặp được học trò có tài để truyền dạy nghề của mình và ông còn mong muốn sẽ tìm được người phụ nữ có thể chung sống trong quãng thời gian còn lại. Một ngày, ông đã gặp cha con nhà nọ khi đi đò, con gái của người đàn ông nọ mới 16 tuổi nhưng lại có một vẻ đẹp không ai sáng bằng. Đó là một nét đẹp trong sáng và cao quý lạ thường cô gái rất thích đánh đàn. Vào một ngày người đàn ông nhận ra người con gái này đều có những phẩm chất của người phụ nữ ông luôn mong muốn. Nhưng lứa tuổi của ông thì lệch rất nhiều so với cô gái đang độ tuổi xuân. Ông đành giấu kín nỗi lòng của mình. Một hôm ông chủ nhà đã xin ông dạy đàn cho người con của bạn mình. Đó là một người có tài đánh đàn và chỉ cần nghe qua là nhớ mãi. Thấy vậy ông thầy dạy đàn lại nghĩ biết đâu đây lại là người học trò mà ông mơ ước. Rồi ông bảo với người chủ nhà đưa con của người bạn đến. Cô gái luôn chăm sóc chu đáo cho thầy dạy. Một hôm người bạn của chủ nhà đưa con trai đến, một cậu con trai mười bảy tuổi. Cậu con trai đã đánh thử cho ông thầy dạy đàn nghe và ông vô cùng kinh ngạc bởi đây là tiếng đàn ông chưa từng được nghe bao giờ. Một tiếng đàn sâu lắng rất trong sáng. Cô gái và chàng trai nhanh chóng trở nên thân thiết. Hai người hay trò chuyện hay đi hái hoa cùng nhau và ông thầy dạy đàn vừa mừng và cũng làm ông đau khổ. Chàng trai rất chịu khó tập đàn và ngày một hay hơn. Tiếng đàn rất có hồn và dễ đi vào lòng người với những giai điệu buồn hoặc vui. Và rồi đôi trai gái cũng đã yêu nhau từ khi nào không hay. Thấm thoát đã hai năm trôi qua cô gái ngày càng xinh đẹp và chàng trai ngày càng tài năng hơn. Không chỉ có tiếng đàn hay anh còn tự mình viết lên nhưng bản nhạc mới rất gần gũi với cuộc sống. Rồi một ngày nhà vua tổ chức cuộc thi chọn người tài giỏi. Người thầy đã đưa học trò cũng mình đến kinh thành dự thi. Sau mấy ngày thi cả hai học trò của người thầy đều được khen thưởng . Chàng trai đã được chọn làm người trẻ tuổi đánh đàn hay nhất, cô gái được mọi người yêu thích và ngưỡng mộ nhất. Sau khi dự tiệc chiêu đãi nhà vua liền ra lệnh mời thầy dạy đàn vào gặp vua. Nhưng người thầy đã ra đi và có để lại cho hai học trò của mình một bức thư. Trước lúc người thầy đi xa, ông đã quay lại từ biệt người chủ nhà và thông báo chuyện đoạt giải của chàng trai và cô gái. Đêm hôm đó ông ngồi một mình trên bãi cát ven sông. Dòng sông như sáng lấp lánh dưới ánh trăng. Vừa uống rượu, ông vừa ôm cây đàn vào lòng đánh lên những âm thanh đầu tiên của làn điệu đang ngân nga trong lòng ông. Rượu ngon, trăng sáng, ông chìm đắng trong tiếng đàn và cảm thấy mình như đang chơi vơi giữa lưng trời, ở con sông đang sáng rực. Nhưng cũng lúc này chàng trai và cô gái đã về tới nhà. Sáng hôm sau, trời còn chưa sáng ông đã trở dậy và âm thầm ra đi không cho một ai hay biết. Thế nhưng vẫn có một người hay biết. Đó là cô gái. Lặng lẽ nhìn người thầy ra đi trong sương sớm, cô khẽ ôm lấy mặt để khỏi bật khóc và đưa tay lau hai giọt nước mắt vừa trào ra. Sau một thời gian trôi qua, một hôm có người đã mang cây đàn và bình rượu của thầy dạy đàn đến biếu ông chủ nhà. Và được người khách cho biết ông thầy đã mất được mấy hôm do bị cảm nặng. Cả ba người đều vô cùng buồn bã khi biết tin này. Trước khi chết người thầy luôn đánh một bản nhạc quen thuộc rất hay của mình. Chàng trai rất muốn đánh lại bản nhạc của thầy. Rồi chàng cầm đàn so dây tiếng đàn cất lên làm mọi người. Ông chủ nhà cùng chàng tria và cô gái đã lập bàn thờ và bia ở trong vườn. Cây đàn và bình rượu được treo ngay cạnh bàn thờ của người thầy. Một bình rượu đầy một loại rượu mà ông vẫn hay uống. Rồi vào một ngày trong mùa xuân mọi người ra thắp hương cho người thầy mọi người đều bất ngờ khi trong miệng bình lại mọc lên hai cái lá con to khỏe vươn dài. Một thời gian sau, cây trổ hoa. Hoa có màu đỏ tươi, năm cánh nhỏ xíu và túm tụm vào nhau nhìn xa như những vết máu đỏ li ti… Mọi người gọi loài hoa ấy là hoa ngô đồng. Ngày nay ở nước ta cây hoa ngô đồng được trồng tại Huế. Trong Đại Nội ở Huế hiện nay có rất nhiều cây hoa ngô đồng. Đến với Huế vào tháng 2 đến tháng 5 âm lịch bạn sẽ được ngắm, thưởng thức loài hoa đẹp này. Nhưng người thưởng thức hoa lại không hẳn ai cũng biết về sự tích hoa ngô đồng đầy u buồn này. Một sự tích hoa mang nhiều đau thương.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-ngo-dong" }
Sự tích hoa Sim và hoa Mua
Từ thuở xa xưa nước Việt mình bị giống người mắt ti hí ở phương bắc thường xuyên xuống xâm lược, cướp phá, với dã tâm thôn tín người Việt, chúng thực hiện chính sách “ sát phu hiếp phụ”, tàn phá xóm làng, hủy hoại di sản, thiêu đốt văn tự. Với lực lượng đông đảo, hiểm ác bởi vậy nên khi chúng đi đâu thì ở nơi đó trở nên tang tóc điêu tàn. Trước cảnh đau thương ly tán, nhà tan của nát, để bảo vệ quê hương giữ làng giữ nước những tráng đinh từ miền ngược xuống miền xuôi tự nguyện tập hợp nhau lại thành một đội ngũ, họ tự trang bị vũ khí cho mình rồi từ biệt quê hương ra nơi sa trường để cản bước tiến của bọn giặc hung bạo. Còn lại nơi quê nhà chỉ là nữ giới, người già cả và trẻ thơ hoặc những người bệnh tật không thể theo bước những đoàn quân. Tuy vậy để động viên khích lệ những người tiên phong ra nơi cây tên mũi giáo họ bám trụ lại nơi chôn nhau cắt rốn hăng hái lao động, tích lũy lương thảo, bảo ban chăm sóc những đứa con thơ dại nhằm tạo nên một hậu phương tin cậy đối với người đi xa. Tình cảnh ấy đã rung động đến trái tim Thượng Đế, thế rồi ngài phái hai thiên sứ xinh đẹp của mình là Tử Sim và Tử Mua xuống nước Việt giúp đỡ những người dân lành. Một thiên sứ phái xuống làng Hoằng Hóa giúp người miền xuôi, thiên sứ còn lại được phái xuống bản Tuần Giáo giúp đỡ người vùng cao. Trước khi cưỡi mây xuống hạ giới Thượng Đế có dặn hai thiên sứ của mình rằng: - Các ngươi xuống trần gian giúp đỡ người dân lầm than trong cơn binh đao, hoàn thành nhiệm vụ trở lại thiên đình ta sẽ tăng phẩm cấp cho nhưng với điều kiện các ngươi không được phép vướng vào vòng luyến ái nơi trần tục, còn nếu như trót phạm phải điều ta đã dặn thì sẽ bị hóa kiếp thành thảo mộc và ở lại trần gian mãi mãi. Giáng trần xuống hạ giới hai thiên sứ hóa thân thành hai thôn nữ đoan trang, dịu dàng ở hai miền xuôi ngược khác nhau. Hằng ngày họ làm ruộng nương để tạo ra thóc gạo. Thời gian còn lại cả hai đều chăm chỉ dệt vải, thêu thùa, tìm thuốc chữa bệnh cho những ai ốm đau. Thỉnh thoảng họ còn đi quyên góp thêm vật chất cứu giúp người có hoàn cảnh cơ hàn, khốn khó. Năm tháng trôi qua, nàng Tử Sim cảm thương rồi yêu chàng trai sơn cước tên là Thái Sơn, còn nàng Tử Mua thì quí mến cảm phục rồi đem lòng yêu chàng trai lực điền tên là Đại Hải ở vùng châu thổ lúc nào cũng không hay. Đến lần sung binh tiếp theo cả hai chàng trai đều ra mặt trận cùng một lượt. tuy kẻ thì ở miền xuôi, kẻ thì ở miền ngược nhưng khung cảnh đưa tiễn đều man mác giống nhau. Trong một chiều hoàng hôn tím ngắt, hình ảnh những cô thôn nữ tiễn biệt người yêu, vợ tiễn chồng, mẹ tiễn con... tất cả đều trĩu nặng niềm âu lo thương nhớ. Khi bóng dáng những tân binh hướng về phương Bắc khuất dần trong bóng chiều mờ ảo, tiếng nức nở còn lại vang vọng cả đất trời, khiến cho những ai chứng kiến cảnh tượng ấy đều không khỏi bùi ngùi xúc động. Từng đoàn người ra đi, lớp lớp người đưa tiễn, kéo dài như vô tận, những người phụ nữ cố nén những tiếng nức nở nghẹn ngào nhưng tình yêu thương và lo sợ sự chia ly mãi mãi chất đầy những buồng tim bé nhỏ đã bật thành tiếng khóc trên bờ môi héo mòn. Những ngày tiếp theo đó cứ đến độ hoàng hôn buông xuống, bà lại bế cháu, mẹ bế con, các thiếu nữ có người thuơng ra trận lại đứng ở những gò đất cao ngóng trông về phương Bắc. Hễ gặp ai họ cũng hỏi thăm về tin tức của những người nơi tiền tuyến rồi khắc khoải hy vọng ngày về của những quân binh cho dù biết rằng đó chỉ là mơ hồ vô vọng. Đường xa vạn dặm, núi ngút ngàn sâu,tìm đâu thấy những người yêu dấu! Nàng tử Sim và Tử Mua cũng hòa chung vào những lớp người đưa tiễn ấy, sự chờ đợi và lo âu của hai nàng đã rung động đến Ngọc Hoàng rồi trời bỗng dưng nổi cơn lôi vũ truyền linh khí vào đất làm rung chuyển dưới chân họ để nâng tầm nhìn được xa hơn. Sự dõi theo của họ vượt qua cả những bãi dâu triền lau cố gắng trông vào khoảng không vời vợi nhưng chẳng thể nào thấy được những gì mình trông chờ mà chỉ có những vệt mây tím cứ trôi dần về nơi xa xa. Ngày lại ngày qua cứ chiều đến hai nàng đều tìm đến gò đất quen thuộc ở hai chốn khác nhau nhưng cùng hướng về một phương trời với dòng lệ đầy vơi! Thời gian qua đi nước mắt của hai nàng không còn đủ để khóc cho người mình yêu, cơ thể suy nhược dần đến heo hon úa tàn rồi hóa thân vào đất. Chính từ hai nơi miền xuôi và miền ngược ấy mọc lên hai thân cây có những điểm giống nhau, nhưng vì lúc sinh thời Tử Mua sống gần vùng biển hứng chịu nhiều phong ba cát bỏng nên da nhám do vậy thân và lá của cây Mua cũng nhám. Còn Tử Sim sống trên vùng núi được bao bọc bởi đại ngàn, được hứng những giọt sương mai nên da mịn màng đầy đặn hơn chính vì thế cây hoa Sim sau này lá cũng trơn mịn và dầy hơn lá Mua. V ới hoa Sim và hoa Mua không kiêu sa lộng lẫy như hoa Hồng mà chỉ là một bông hoa rừng đơn sơ khiêm nhường. Vẻ đẹp riêng biệt của loài hoa dại này đến từ cái mỏng manh như tình yêu ngắn ngủi, đến từ cái màu tím làm xao xuyến lòng người và đến từ một sức sống mãnh liệt khi nó bất chấp cảnh hoang vu của núi rừng, khô cằn của sỏi đá, khắc nghiệt của thời tiết để dâng hoa cho đời một màu tím yêu thương. Màu tím ở đây là một nguồn mỹ cảm vì nó trở thành sắc màu thời gian, sắc màu thương nhớ. Lắng đọng của tình yêu, của cái đẹp và của niềm đau xót tràn trề tạo nên một sắc tím thủy chung, u buồn; bạt ngàn núi đồi, trùng trùng tiếc nuối… Cái màu tím đã mang sứ điệp của sự thủy chung và chờ đợi. Người con gái khi chọn yêu hoa sim đã không biết mình chọn sự chờ đợi. Trong bao nhiêu loài hoa, hoa Sim – hoa Mua chỉ là một loài hoa dại, sống trên đất cằn sỏi đá. Đẹp thay một loài hoa, thật kỳ lạ mỗi khi nở là hàng chục bông một lúc rạng rỡ, hoa đẹp trên nền tảng đất đai khắc nghiệt, đẹp trong sự lẻ loi. Người con gái yêu đất mẹ lầm than giờ nước mắt và thân xác hòa vào mảnh đất quê hương đã biến thành một khóm Sim – Mua lay động trên đường dõi theo người lính trẻ hành quân. Hằng năm cứ vào khoảng tháng ba đến tháng tám thì loài hoa ấy lại dâng tặng cho đời những cánh tím đong đưa theo gió trên khắp những miền gò đồi hoang vu. Từ vẻ đẹp nhẹ nhàng mong manh nhưng cũng đầy sức mê hoặc đó là thứ ngôn ngữ để những chàng trai thổ lộ tình yêu. Hoa Sim - hoa Mua còn mang biểu tượng cho những cô gái mộc mạc, giản dị mang trái tim nhân hậu yêu thương nước Việt và sự bao dung, thủy chung son sắt.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-sim-va-hoa-mua" }
Sự tích chim Trĩ bới mộ
Ngày ấy, ở một làng nọ, có hai mẹ con sống đầm ấm bên nhau trong một căn nhà nhỏ dựng sát bìa rừng. Người con trai đã lớn, hàng ngày vác cung nỏ vào rừng săn bắn, còn người mẹ thì chăm sóc vườn nương. Hôm ấy, chàng trai đi vào rừng sâu, nhưng cả ngày không bắn được con thú nào. Khi sắp sửa ra về, chàng bắt gặp một con Trĩ, liền giương cung bắn hạ nó. Về nhà, hai mẹ con nướng con chim để dùng nó cho bữa tối. Trên mâm gỗ là con chim Trĩ vàng ươm đang bốc hơi nóng. Người con trai định cầm con chim lên xé thịt thì bỗng hắt hơi mấy cái liền. Bà mẹ thấy vậy định làm thay con thì cũng bị hắt hơi như vậy. Bà liền nói với con mình: – Thôi, con ạ! Chắc thần linh không cho mẹ con ta được ăn thịt chim rồi. Ta chịu khó ăn cơm với muối vậy. Xong bữa, người mẹ cầm con chim còn nguyên vẹn, đặt lên giàn bếp. Hôm sau, công việc của hai mẹ con vẫn diễn ra như thường lệ: Người mẹ đi làm nương, anh con trai vào rừng săn bắn, đến tối mới về. Nhưng khi cả hai về đến nhà, một điều kì lạ đã xảy ra, nhà cửa đã được dọn dẹp sạch sẽ, tươm tất, giữa sàn nhà là một mâm cơm ngon lành được dọn sẵn từ bao giờ. Cả hai mẹ con đều rất đỗi ngạc nhiên, liền đi dò hỏi xóm giềng xem có ai sang giúp họ hay không, nhưng chẳng ai biết điều gì cả. Thế là hai mẹ con trở về nhà và vẫn quyết định ăn bữa com như bình thường vì họ quá đói bụng, mặc cho bất cứ chuyện gì sẽ xảy ra. Mấy ngày sau đó, sự việc vẫn diễn ra y hệt như thế. Hôm đó, chàng trai lại sửa soạn cung nỏ vào rừng, dặn mẹ mình trông nom nhà cửa cẩn thận vì có thể chàng sẽ đi dài ngày. Nhưng vừa đến bìa rừng, chàng lại rẽ theo con đường tắt để trở về nhà. Chàng không vào nhà ngay, mà đứng nép vào bên ngoài chái bếp và vạch tấm phên lên nhìn vào trong. Chẳng phải đợi lâu, chàng thấy từ giàn bếp, chỗ treo con chim Trĩ, hiện ra một người con gái xinh đẹp tuyệt trần. Nàng từ từ bước xuống và dọn dẹp mọi thứ trong nhà cho thật ngăn nắp, đâu vào đấy. Xong việc, nàng lại thu mình vào vỏ con chim Trĩ. Chàng trai hết sức ngạc nhiên và thích thú. Đợi cho tới khi mặt trời vừa tắt nắng, cô gái xinh đẹp lại hiện ra và xuống bếp làm cơm nước cho bữa tối, bấy giờ chàng mới lẻn vào lấy vỏ con chim Trĩ giấu đi chỗ khác, và chạy đến ôm chầm lấy cô gái. Cô gái hoảng hốt đẩy chàng ra, định chui vào vỏ chim, nhưng chiếc vỏ quen thuộc không còn ở trên giàn bếp nữa, bất đắc dĩ nàng đành phải đứng lại. Trước sự hỏi han rối rít của chàng trai, nàng bèn kể: – Thiếp là con gái vua các loài chim ở xứ sở Mặt trời. Trên đường bay về cùng cả đàn, do ham chơi nên bị lạc đường, mắc nạn ở đây. Mang ơn hai mẹ con chàng đã không ăn thịt, nên thiếp tìm cách báo đền một thời gian, không ngờ bây giờ đã bị chàng phát hiện. Đúng lúc đó, mẹ chàng trai trở về nhà, nghe qua sự tình, bà vui vẻ khôn xiết và bảo: – Đây đúng là duyên nợ của hai mẹ con. Thôi, con gái yêu, con không phải đi đâu nữa, hãy ở lại đây cùng mẹ con ta. Từ đó, hai người thành vợ thành chồng. Một năm sau, đứa con đầu lòng của họ ra đời. Khi đứa bé được vài tháng tuổi thì cũng là lúc mùa thu hoạch đến. Người chồng định nghỉ việc săn bắn để lên rẫy cắt hái thì người vợ liền nói: – Chàng cứ đi săn đi, việc thu hoạch hãy để thiếp lo liệu. Còn mẹ, xin mẹ ở nhà trông nom cháu, đừng lên rẫy làm gì. Người chồng thấy thương vợ, hỏi: – Liệu mình nàng có làm nổi không? Người vợ trả lời: – Chàng cứ yên tâm, nhớ nhắc lại với mẹ đừng có lên rẫy. Người chồng nghe lời vợ, vác cung nỏ đi săn. Người vợ mang gùi lên rẫy hái lúa. Tới nơi nàng biến thành chim và nhờ họ hàng nhà chim cùng tuốt lúa với mình. Chẳng mấy chố, kho lúa đã gần đầy, rẫy đã tuốt xong quá nửa. Ở nhà, người mẹ cảm thấy nóng ruột, sợ con dâu không tuốt kịp lúa, lại thêm đứa bé khát sữa cứ khóc váng lên. Bà liền địu cháu lên rẫy. Lên tới rẫy, bà không thấy nàng dâu đâu cả, chỉ có bộ váy quen thuộc để trên tảng đá. Còn trên rẫy, hàng trăm con chim đang thi nhau mổ thóc. Bà tức giận, lấy đá ném vào đàn chim. Đàn chim hoảng sợ bay tan tác. Người con dâu vẫn không thấy đâu, bà liền nhặt bộ váy áo nàng lên và địa cháu quay trở về nhà. Khi người con trai về tới nơi, bà vội vàng kể lại: – Vợ con nói lên rẫy tuốt lúa, nhưng lại bỏ đi chơi, váy áo vứt lại để chim chóc tha hồ ăn hết lúa. May lúc đó mẹ lên tới nơi, đã đuổi lũ chim đi và mang bộ váy về đây. Nghe vậy, người chồng vội vàng chạy lên rẫy xem sao thì thấy lúa đã gần đầy kho, còn rẫy thì vắng lặng. Chàng chợt hiểu ra mọi chuyện, bèn chạy khắp rừng núi gọi tên vợ, nhưng tuyệt nhiên không nghe thấy tiếng hồi âm. Chàng về nhà ôm con than khóc. Tiếng khóc thương vợ ai oán hàng đêm của người chồng đã vượt qua bao núi đèo, sông suối, rẫy nương, tìm đến đến nơi xa xôi có vua của các loài chim ở đó. Nơi đây, người vợ chim Trĩ nghe được tiếng khóc than của chồng, liền tìm cách bay về. Trên cành cây cao trước của nhà chàng trai, chim Trĩ kêu rằng: – Hỡi chàng ơi! Hãy theo ta về xứ Mặt trời, xin với vua cha cho cùng sum họp! Nghe vậy, người chồng cõng con chạy theo chim. Vượt qua bao núi rừng, bao ghềnh thác, người chồng cam lòng hứng chịu mọi nỗi gian truân, vất vả. Nhưng đứa bé thì không thể chịu đựng được, nó đã chết trên lưng cha mình. Vô cùng thương xót đứa con bé bỏng, chàng chôn con mình trong một ngôi mộ nhỏ trên ngọn đồi đồi, rồi từ giã con, lên đường đi tìm tiếp. Nhưng người vợ trong lốt chim Trĩ đau đớn vì mất con cứ kêu lên ai oán và bay quanh quẩn bên ngôi mộ đứa bé. Rồi chim đậu trên mộ, cố moi đất tìm xác con cho khuây khỏa. Người chồng không được ai dẫn đường, bị lạc lối và chết ở trong rừng. Đến khi biết không thể tìm được xác con, chim Trĩ lại bay đi tìm chồng, nhưng không gặp được. Mất chồng, mất con, chim không muốn trở về với vua cha nữa, mà cứ tha thẩn trong rừng sâu, rồi cũng quên mất đường về, quên cả đường tới mộ con. Từ đó, hễ thấy ở đâu có mộ, chim Trĩ lại ngỡ đó là mộ con mình, nên cứ ra sức đào bới. Cho đến tận bây giờ, mỗi khi chim trĩ bới mộ, nhiều người vẫn không khỏi chạnh lòng bởi tiếng chim kêu não ruột như oán hờn, như ân hận điều gì của loài chim này.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-tri-boi-mo" }
Con Giun khôn ngoan
Xưa có một người bắt một con Giun nhỏ làm mồi để câu Cá. Khi bị chìm xuống nước, con Giun thấy một con Cá muốn đến đớp, mới bảo Cá rằng: - Tôi với anh cùng là một loài ở một đất nước với nhau. Nay người nó bắt tôi làm mồi để nhử anh. Phỏng anh ăn thịt tôi, tôi chết, mà anh móc vào lưỡi câu, thì anh có sống được chăng? Cá nghe nói không ăn giun, bỏ đi nơi khác. Người kia ngồi câu mãi không thấy được con Cá nào, nghĩ bụng con Giun ấy không làm mồi được, bèn lấy ra quăng đi mà kiếm mồi khác. Thành con Giun khỏi chết. Bởi chuyện này sau ta mới có câu hát rằng: Khôn ngoan ai được như Giun Cá khôn mắc mẹo, người khôn mắc lừa!
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/con-giun-khon-ngoan" }
Bà cháu
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng kia có hai em bé, một trai, một gái. Trai là anh, gái là em. Bố mẹ mất sớm, hai em về sống với bà ngoại. Bà già lắm và cũng nghèo lắm. Ba bà cháu rau cháo nuôi nhau, đời sống rất đỗi chật vật nhưng được cái lúc nào cũng hòa thuận vui vẻ. Các cháu ríu rít quấn quýt quanh bà. Bà móm mém cười hiền từ nhìn các cháu, dịu bớt những nỗi vất vả, cay đắng. Một hôm, có bà tiên đi ngang qua, thấy tình cảnh ba bà cháu, mủi lòng [1], liền để lại một trái đào và dặn: – Khi nào bà mất đi, hai cháu mang hạt đào này gieo lên mộ thì lập tức sẽ được giàu có, sung sướng. Đời sống cực nhọc quá, cuối cùng rau cháo cũng không đủ ăn, bà ngoại thương cháu, nhịn ăn liền mấy ngày để cái chết mau đến, hi vọng lời bà tiên sẽ thành sự thật, cháu mình sớm được hạnh phúc. Quả nhiên, mộ bà vừa đắp xong, hạt đào vừa gieo xuống, phúc chốc đã hiển hiện điều lạ lùng. Hạt đào nảy mầm, cây lớn nhanh vùn vụt, rào rào nảy lá, đơm hoa, kết quả. Trùm lên mộ bà là một cây đào lực lưỡng, trĩu trịt trái vàng, trái bạc. Hai anh em hớn hở chạy quanh gốc đào, hái mỏi tay, cũng không hết của cải quý giá. Nỗi nhớ bà khuây khỏa dần. Hai anh em trở nên rất giàu có, giàu hơn cả mọi ông hoàng, bà chúa khắp thế gian. Nhưng rồi phát vui sướng bồng bột ban đầu dần lắng xuống. Vàng bạc, châu báu lạnh lẽo không bù lại được tình thương đầm ấm của người bà. Sống giữa cung điện cao vọi, nhiều lúc anh em cảm thấy trống trải. Nhìn đâu cũng thấy vàng bạc mà không mảy may thấy bóng dáng thân thương của bà ngoại. Nỗi nhớ thương bà cồn cào gan ruột làm hai anh em ăn ngủ không yên, vẻ mặt lúc nào cũng rầu rĩ, héo hắt. Làm sao có thể sung sướng được nếu sống thiếu bà. Bà tiên lại đi ngang qua. Thấy hai anh em đã trở nên vô cùng giàu có mà vẫn không được thanh thảnh [2], bà dừng lại, hỏi. Em gái òa lên khóc, cầu mong bà tiên hóa phép cho bà ngoại mình sống lại. Bà tiên nói: – Nếu bà ngoại sống lại thì ba bà cháu lại cực khổ như xưa, liệu có chịu được không? Cả hai anh em cùng nói như reo lên: – Chúng cháu chịu được! Khổ sở đến đâu chúng cháu cũng chịu được, miễn là bà chúng cháu sống lại! Bà tiên phất chiếc quạt lông màu nhiệm [3]. Phút chốc, tất cả lâu đài, thành quách, cây đào với những trái vàng, trái bạc biến thành một áng mây hồng lơ lửng trôi về phía cuối trời. Bà ngoại lại hiện ra, móm mém cười, hiền hậu dang tay ôm hai cháu. Cậu bé, cô bé sà vào lòng bà ngoại thổn thức. Sẽ chẳng bao giờ họ xa nhau nữa. Ba bà cháu lại tần tảo [4] rau cháo nuôi nhau, vất vả thật, nhưng lúc nào cũng tràn đầy tình thương mến. Chú thích [1] Mủi lòng: động lòng thương xót. [2] Thanh thản:yên vui, không có điều gì bận lòng. [3] Màu nhiệm: như có phép lạ, làm xuất hiện, biến đổi, tiêu tan những cảnh vật xung quanh. [4] Tần tảo: chăm lo làm lụng kiếm sống.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ba-chau" }
Sự tích con Bìm Bịp
Ngày xưa, có một thiếu nữ con nhà khuê các, không hiểu vì duyên cớ gì mà cạo đầu đi tu, rồi lặn lội qua Tây phương tìm Phật. Trải qua rừng sâu núi hiểm, thân gái một mình, nàng chịu biết bao gian nguy cực khổ. Thấy nàng mộ đạo, đức Thích Ca hoá ra một người ăn xin để thử lòng nàng. Người ăn xin ấy nhờ nàng cho gói cơm khô duy nhất của nàng mang theo để ăn cho đỡ đói. Nàng cảm cảnh nghèo khổ của người ăn xin, bèn niềm nở cho cả gói cơm khô của mình. Phật động lòng nên trước khi từ biệt, có truyền cho nàng bốn câu kinh và dặn khi nào gặp tai nạn thì niệm lên, tự nhiên sẽ gặp sự may mắn. Một hôm, trời đã về chiều, chân mệt mỏi, nàng lạc vào khu rừng âm u. Bỗng trước mặt xuất hiện lờ mờ một ánh đèn trong túp lều tranh bên sườn vắng. Nàng hối hả rảo bước đến gõ cửa xin trọ lại qua đêm. Có tiếng lanh lảnh trong lều đưa ra, rồi tiếp đến tiếng cười ròn rã. Mụ Trăn vốn hay ăn thịt người nên khi đánh hơi thấy nàng thì vội há nanh nhọn hoắt lên cười,toan nuốt sống nàng. Nàng bèn niệm bốn câu kinh: – Thiên la thần, địa la thần. Nhân li nạn, nạn li thân. Nhất thiết ta ương, hoá vi thần. Nam mô A di đà Phật! Tức thì mụ Trăn sợ hãi, đến trước mặt nàng mà năn nỉ. Liền đó, ở ngoài có tiếng gào thét làm rung chuyển cả núi rừng. Đó là con của mụ Trăn sắp về. Cũng nghiền thịt như mẹ, Trăn con vừa bước vào nhà đã đánh hơi mùi thịt. Khi thấy nàng núp trong buồng, Trăn con lôi ra toan nuốt sống. Nàng nhắm mắt đọc kinh. Bỗng Trăn con thấy ruột gan như bị cào xé, tay chân rụng rời. Trăn con năn nỉ nàng, rồi sau khi nghe nàng thuyết pháp, Trăn con muốn chuộc tội đầy rẫy của nó, bèn móc ruột, lấy trái tim nhờ nàng đem đến dâng Phật, rồi ngã lăn ra chết. Sáng sau, nàng buộc quả tim vào gánh hành lý rồi nhằm hướng Tây mà đi. Đi độ năm bảy ngày, quả tim sình lên mùi hôi thối, không chịu được, nàng bèn vứt nó vào bụi rậm. Qua nhiều ngày vất vả, ni cô trông thấy trước mắt ánh sáng chói loà trên nóc điện vàng xứ Phật. Mặc dầu gần đuối sức, ni cô bước mau, tới gần thành cực lạc. Đến cửa vào đất Phật, ni cô đã kiệt sức, đưa tay lên gõ, cửa vẫn khép chặt. Gõ mạnh thì thấy một vị Bồ tát hiện ra trước mặt, hỏi: – Nam mô A di đà Phật! Chúng sinh lòng tưởng tới Phật mới xa xôi lặn lội tìm tới Tây phương. Vậy chẳng hay dọc đường có ai nghĩ tới Phật nữa không? Ni cô bèn đem chuyện Trăn con gửi trái tim mà kể lại. Bồ tát bảo rằng cửa Phật chỉ mở cửa khi nào ni cô đem đến trái tim đã hứa dâng cho Phật. Nghe vậy, ni cô khóc nức nở, thưa rằng mình không còn sức để tìm trái tim đã vứt dọc đường. Bồ tát nói rằng: – Nếu vậy ta sẽ ban cho con đôi cánh để bay cho khỏi mệt. Thế rồi Bồ tát niệm một câu kinh, tức thì ni cô biến thành một con chim. Cô gái đang đội mũ đen ni cô nên đầu hoá đen, mắt vừa khóc hoá đỏ, bộ quần áo nâu thành bộ màu đà. Từ đó con chim bay đi tìm trái tim, hết lùm nọ đến bụi kia, thình thoảng lại than vãn: “Tội nghiệp! Tội nghiệp!” mà không bao giờ kiếm ra vật Trăn con đã giao cho nàng dâng lên Phật. Do tiếng kêu của con chim màu đà, người ta đặt tên cho nó là Bìm Bịp.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-bim-bip" }
Tham thì thâm
Ngày xưa, trong một làng ven sông Đà có một người rất giàu có, nhưng tính tình tham lam, gian ác. Một hôm, vào tối tháng chạp, có một cụ già rách rưới, không biết từ đâu đến, đi vào làng. Bà cụ tìm đến nhà tên giàu xin trú thân. Thấy cụ yếu đuối và rách rưới, hắn đuổi không cho ngủ nhờ. Bà cụ vẫn cứ xin mãi, hắn cũng một mực đuổi ra. Bà cụ đành phải đi. Vừa đi khỏi cổng, bà gặp một người nông dân từ xa đi tới. Thấy người già yếu, đi trong đêm tối rét mướt, anh hỏi: - Cụ ở đâu mà đêm hôm vẫn còn lặn lội ở ngoài đường thế này? Bà cụ đáp: - Tôi từ xa tới, đến đây thì nhỡ độ đường, vừa vào nhà kia (cụ chỉ về phía nhà giàu) xin ngủ nhờ một đêm nhưng nó không cho. Anh liền nói: - Mời cụ vào nhà tôi nghỉ tạm vậy. Bà cụ theo anh nông dân về nhà. Nhà anh là một cái túp lều xiêu vẹo, rách nát. Vừa vào đến nhà anh đã kể đầu đuôi câu chuyện cho vợ rõ. Nhà chỉ còn một bát gạo, hai vợ chồng đem nấu cho bà cụ ăn. Cơm nước xong, hai vợ chồng dọn giường chiếu cho bà cụ ngủ. Mùa đông, gió rét, bà cụ run lên cầm cập. Nhà chỉ có một chiếc chăn đơn cũ kĩ, hai vợ chồng cũng nhường cho bà cụ đắp. Bà cụ lên giường nằm, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa sưởi, chờ cho bà cụ ngủ say mới đi nằm. Nhưng họ vừa đặt mình xuống chưa chợp mắt thì bà cụ rên hừ hừ, kêu đau bụng. Hai vợ chồng dậy lấy cho bà cụ một chiếc chậu sành để đi đại tiện. Một đêm, bà cụ đi đến bảy, tám lần. Hai vợ chồng phải thay phiên nhau đỡ bà cụ. Gần sáng, đôi vợ chồng mệt quá, thiếp đi lúc nào không biết. Khi hai người tỉnh dậy thì tròi đã sáng, nhìn sang giường bên thì không thấy bà cụ đâu cả. Người vợ bưng chậu đi đổ, thấy nặng khác thường: Chị nhìn xuống thì thấy trong chậu đầy vàng óng ánh. Từ đó, hai vợ chồng trở nên giàu có. Tuy vậy, họ không bao giờ quên cảnh nghèo khi trước nên vẫn hết sức giúp đỡ những người trong cảnh khốn cùng. Tiếng lành đồn xa, khắp dân trong vùng ai ai cũng biết. Tên phú ông lân la đến chơi nhà hai vợ chồng, dò hỏi. Từ đấy, ngày nào hắn cũng mong được gặp lại bà cụ. Bỗng một hôm, trời gần tối, không biết từ đâu, bà cụ lại đến nhà hắn xin ngủ nhờ. Hắn khấp khởi mừng thầm, vui sướng như mở cờ trong bụng. Nhà hắn thì tòa ngang dãy dọc, nhưng hắn cho bà cụ nằm dưới bếp. Thóc của hắn có hằng bao nhiêu vựa, nhưng hắn chỉ cho bà cụ một bát cơm nguội với vài quả cà thiu. Xưa nay, hắn chưa cho ai một tí gì, nên hắn tưởng thế đã là hậu đối với người nghèo khó. Đêm ấy, hắn ngồi đợi bà cụ đi ra vàng. Hắn thức khuya mà vẫn thấy cụ ngủ im thin thít, không kêu đau bụng gì cả. Mệt quá, hắn bỏ đi nằm. Vừa đặt mình xuống thì bà cụ kêu đau bụng, rồi một lát sau đòi đi ra ngoài. Hắn quên mất ý định từ trước, trong lúc nửa tỉnh nửa mê, hắn mắng bà cụ: - Của nợ, chỉ thấy quấy rầy người ta. Muốn đi thì ra ngoài kia mà đi, ai hầu được! Nhưng sực nhớ ra bà cụ có cái bụng chứa đầy vàng hắn vội nói: - à à, thôi được, cứ nằm đấy, tôi mang chậu vào cho. Thế rồi hắn vội đi lấy cái thùng to tướng và giục bà cụ ngồi vào đó. Bà cụ đau suốt đêm và đi như tháo cống. Tên phú ông thấy bà cụ đi nhiều, rất lấy làm mừng. Suốt đêm, hắn không sao chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng. Nhưng đến khi tờ mờ sáng thì hắn lại ngủ thiếp đi. Sáng rõ, tên phú ông tỉnh dậy, không thấy bà cụ đâu cả. Hắn vội đến thùng vàng thì mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Hắn tím mặt, vội đi tìm bà cụ, hung hăng định cho một trận, nhưng không thấy bóng dáng bà cụ đâu cả.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/tham-thi-tham" }
Bảy chàng trai
Ngày xửa ngày xưa, có nhà nọ đã nghèo lại đông con. Bảy người con trai đã lớn mà chưa ai có vợ, ở riêng. Họ làm ăn cật lực, cũng không đủ ăn, chỉ vì thiếu đất phá rẫy làm nương. Bố mẹ họ thường ngồi than thở với nhau: – Thế này thì phải bỏ làng đi nơi khác! Chúng nó lớn cả rồi, đứa nào cũng khỏe mạnh. Quý hồ [1] tìm được đất lành thì chẳng đến nỗi nào! Ông cha ngày trước cũng thế thôi. Đất ở bạc với người thì người bỏ đất mà đi. Chẳng bì được với người khác. Họ giàu có, là nhờ ông bà tổ tiên họ đến đây trước, chỗ nào nhiều lúa nhiều ngô, họ chiếm hết rồi. Bà mẹ thở dài: – Biết đi đâu? – Ngồi ở đây thì sao biết được! Cứ đi đã. Có đi, mới đến. Bảy chàng trai thấy bố mẹ gì lo buồn như thế, bàn với nhau đi trước, gặp đất lành sẽ về đưa bố mẹ đến sau. Lúc đầu, hai ông bà nói đã đi thì đi cả, nhưng về sau, mỗi đứa một lời cũng nghe ra, đành để các con đi trước. Thế rồi, ngày nọ, bảy chàng trai lên đường đi tìm đất lành. Họ đi về phía mặt trời mọc, vượt qua những rừng thẳm núi cao, tìm những vùng đất bằng phẳng ở được nhiều người. Nhưng cũng chưa gặp chỗ nào ưng bụng. Anh thứ hai bàn: – Hay là chia ra, mỗi người đi một hướng mà tìm? Người anh cả nói: – Khi bước chân ra đi, bố mẹ dặn đi dặn lại rằng anh em không được rời nhau. Rời nhau ra là chết. Chúng ta đi ròng rã cả mấy lần trăng tròn trăng khuyết, xa làng cũ lắm rồi! Nhỡ gặp chuyện gì phải có anh, có em. Còn một mình, xoay xở ra làm sao? Họ lại tiếp tục đi, vượt qua nhiều đèo, nhiều suối, ngày đi đêm nghỉ, cuối cùng đến một nơi đồi nối tiếp đồi, đất màu đỏ, cầm lên tay, tơi như bột, dễ bới, dễ trồng. Anh em bảo nhau: – Đất lành đây rồi! Rộng lắm! Chúng ta về đưa bố mẹ lên, gọi cả những nhà nghèo như chúng ta cùng đến. Họ cũng như chúng ta, không ai muốn sống cảnh đói cơm rách áo. Nhưng phải xem xung quanh đây có làng bản nào không đã, dân cư ra làm sao. Họ theo đường mòn, tìm dấu chân người. Mãi gần tối mới đến nơi có nhiều nhà cửa. Không nhà nào đỏ đèn, cổng thì đóng kín. Cũng không nghe tiếng gà kêu chó sủa. Bốn bề im phăng phắc. Lẽ nào trời tối rồi mà người ta còn ở ngoài nương rẫy cả, chưa về sao? Họ đang đứng tần ngần, chưa biết nên như thế nào thì người em út nói: – Đi trong rừng vắng không sợ bằng chỗ này. Chỗ này có nhà mà nhà nào cũng vắng tanh vắng ngắt. Chắc có tai nạn gì ghê lắm nên cả làng mới bỏ đi. Hay là anh em ta tìm làng khác vậy! Người anh thứ ba nói: – Đi đâu nữa cũng sáng mai. Bây giờ cứ vào ngôi nhà to lớn đằng ấy nghỉ lại đã. Mấy người kia cũng nói: – Phải đấy. Cứ vào, xem sao. Còn đoán thế này, đoán thế khác, thần hồn nát thần tính [2], chỉ làm mình sợ thôi! Anh em ta bảy người, có lẻ loi đâu! Cứ vào! Và bảy chàng trai kéo nhau vào ngôi nhà to nhất làng. Không có ai cả. Bếp lạnh tanh, đủ biết nhiều ngày, không thổi nấu gì. Ai cũng đói bụng, họ sửa soạn thổi cơm. Người anh cả cắt đặt, bảo anh hai ra canh cổng, anh ba đứng ở sân, thấy động là báo ngay. Bỗng một người con gái, tóc bỏ xõa, từ trong buồng lẳng lặng bước ra. Thấy người lạ, cô ta không sợ hãi mà có vẻ yên tâm hơn. Cô ta nói: – Chết! Chết! Các anh đừng đỏ lửa lên! Chúng nó thấy khói, thấy lửa ở đâu là bay đến đó. Mà các anh là ai? Từ đâu đến? Bấy giờ mấy anh em mới xúm lại quanh cô gái, hỏi dồn. Cô gái kể: – Chúng nó là con kơ-na-kinh [3] khổng lồ và bầy gơ-rứ [4] hung ác. Đã bốn hôm nay, chúng nó đến làng tôi, thấy nơi nào có khói, có lửa là sà xuống bắt người. Mấy nhà ở đằng kia bị hốt sạch. Bố mẹ tôi cũng bị chúng hốt đi hôm qua. Tôi chui vào hầm, chúng không biết, nên thoát. Thế là cả làng, già trẻ trai gái kéo nhau vào rừng. Nhà nào có hầm mới có người ở nhà trông nhà, thấy động là chui vào hầm ngay. Không nhà nào dám đỏ lửa thổi cơm. Toàn ăn gạo rang, sắn khô. – Thế, không có cách gì giết được chúng ư? – Làng tôi thiếu gì người bắn cung, bắn nỏ giỏi, nhưng không ăn thua. Chúng đông lắm, gầm rú nghe run cả người. Chỉ giết được vài con. Còn con chim chúa to hơn cả chiếc thuyền, bắn không thủng. Mũi tên chạm vào thân nó là gãy đôi rơi xuống. Bảy chàng trai nghe cô gái kể cũng chờn chợn [5]. Họ ngồi im lặng, nghĩ cách giết con kơ-na-kinh và bầy gơ-rứ. – Dùng nỏ, dùng cung không được thì dùng dao, dùng mác. Dử nó xuống gần rồi chém từng con. – Thế nào? Nó lại gần mà mình yên à? Với lại con kơ-na-kinh, bắn không thủng, thì chém cũng không đứt! – Không cách này thì cách khác, chẳng lẽ chịu chết hay sao? Mọi người lại ngồi im lặng. Bỗng người anh cả bình tĩnh nói: – Được rồi! Cứ thổi cơm ăn no đã. Chúng ta đóng cửa thật chặt. Trên mái nhà sẽ khoét bảy cái lỗ. Con nào thò đầu vào, chém con ấy. Còn con kơ-na-kinh bắn không thủng, chém không đứt, thì bẫy. – Ừ nhỉ! Cứ thế mà làm! Đóng cửa thật chặt chúng ta ở trong không sợ. Thôi, người nào việc nấy. Họ bắt đầu đóng cửa, khoét lỗ. Cô gái chưa biết mình nên làm gì, hỏi: – Còn tôi? Người anh cả nói. – Cô tìm cho tôi sợi da trâu nhà dùng bắt voi, đem ra đây, tôi thắt cái lọng. Và cô vo gạo thổi cơm đi! Nói rồi, bảy chàng trai ngồi mài dao thật sắc, khoét bảy cái lỗ trên mái nhà, sửa soạn thòng lọng [6]. Cô gái đỏ lửa thổi cơm. Họ vừa ăn xong, đặt bát xuống, đã nghe tiếng ầm ầm từ xa xen lẫn tiếng gào rú, tiếng cánh đập gió như bão nổi lên. Đàn chim dữ thấy khói bốc lên, bay tới. Chúng đã ở trên mái nhà, liệng qua liệng lại, tìm đường vào. Thế rồi cái đầu nào thò vào là cái đầu ấy rụng. Một chục… hai chục… ba chục… Con kơ-na-kinh gào lên, xô đẩy đàn gơ-rứ. Chẳng biết chúng nó bao nhiêu, nhưng về sau thưa dần, thỉnh thoảng mới có một cái đầu thò vào, chưa kịp ngó, đã lại rụng. Chết nhiều, chúng nản. Có tiếng vỗ cánh bay đi, tán loạn. – Phải bắt cho được con kơ-na-kinh thì đàn gơ-rứ mới không dám trở lại! Đưa cái thòng lọng đây! Người anh cả vừa nói, vừa khoét một cái lỗ to hơn, vừa cho nó thò đầu vào. Và ngồi chờ. Quả nhiên, một lúc, con chim chúa sà xuống, thò đầu vào cái lỗ to nhất. Tức thì thòng lọng thắt lại. Người anh cả đu người vào sợi dây, vít xuống. Nó đập cánh sàn sạt, vùng vẫy, rung chuyển cả ngôi nhà như trong một cơn lốc. Bấy giờ thì nó không làm gì được nữa rồi! Những con gơ-rứ còn lại thấy chim chúa mắc nạn, hoảng sợ bay đi hết. Chờ cho đến khi thật yên tĩnh, người anh cả mới bảo ba người em ra ngoài, trèo lên mái nhà lấy dây thừng cột chặt chân và cánh nó lại, không cho cựa quậy, ba người kia thì ở trong giúp anh vít chặt cái thòng lọng xuống. Bây giờ nó đã nằm giữa sân, thở hồng hộc. Cô gái muốn giết ngay để trả thù cho cha mẹ và người làng bị nó bắt đi, nhưng người anh cả nói: – Để tôi hỏi xem nó bắt người giấu ở đâu, hay là đã ăn thịt rồi. Này, con chim dữ kia! Người của chúng ta, ngươi đưa đi đâu? Họ đang yên ổn làm ăn, các người ở đâu đến, gay tai họa. Họ làm gì các ngươi? Nói đi? Nó vẫn nằm thở, không nói. – Ngươi không nói tức là muốn chết. Thôi cho ngươi chết! Sáu người cầm hai đầu dây thòng lọng kéo. Nó mới rên rỉ: – Xin các ông để tôi nói. Người các ông, tôi đưa vào cái hang trong núi. Họ còn ở đấy cả. Cô gái vội vàng hỏi: – Hang nào? Có phải cái hang ở ngọn núi đằng kia không? – Vâng. – Thế thì tôi biết! Ngay đêm ấy, họ giết con chim chúa, còn cô gái thì đốt đuốc đến từng nhà gọi những người trốn trong hầm ra, kể đầu đuôi câu chuyện, rồi kéo nhau vào núi, tìm người. Tờ mờ sáng hôm sau, thì những người bị bắt đi cũng như những người ở trong rừng về đông đủ. Họ hỏi tung tích bảy chàng trai, tôn họ là những anh hùng đã cứu dân làng tai qua nạn khỏi. Bố mẹ cô gái là người đứng đầu bản này, thay mặt dân bản cảm ơn bảy chàng trai. Có người thấy cô gái cùng lứa tuổi với người em út, nói là gả cho anh kết đôi làm vợ chồng thì khéo lắm. Bố mẹ cô gái vui mừng, nói: – Được thế thì còn gì bằng! Không có các anh ấy thì vợ chồng chúng tối chết đói trong hang, mà con gái chúng tôi cũng không sống nổi. Công ơn các anh, đối với làng ta to lắm! Bảy chàng trai tìm được đất lành, trở về đưa bố mẹ và bạn nghèo đến, rồi cùng nhau làm ăn vui vẻ, không bị đàn chim dữ nào đến cướp phá nữa. Chú giải [1] Quý hồ: miễn sao, chỉ cần. [2] Thần hồn nát thần tính: (thành ngữ) tự mình làm cho mình hoảng sợ. [3] Kơ-na-kinh: tiếng dân tộc, chỉ loài chim dữ to lớn như đại bàng. [4] Gơ-rứ: tiếng dân tộc, chỉ loài chim dữ, nhỏ hơn kơ-na-kinh. [5] Chờn chợn: hơi hoảng sợ. [6] Thòng lọng: vòng dây buộc, khi giật mạnh một đầu thì đầu kia thắt chặt lại.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/bay-chang-trai" }
Chàng đốn củi và ba vật quý
Ngày xưa, có một anh chàng nghèo khó sống một thân một mình. Tuy làm việc vất vả nhưng anh vẫn đói rách. Những bông lúa do bàn tay anh vun bón cứ thi nhau chạy về nhà lão trọc phú. Cuối cùng, anh đành bán hết những thứ còn lại trong nhà  để mua một lưỡi búa, làm nghề đốn củi nuôi thân. Nhưng kiếm được gánh củi không phải là dễ. Một hôm, theo thường lệ, anh vào rừng sâu tìm củi. Sắp giơ búa giáng vào một cây cổ thụ thì bỗng có một con vật từ trong thân cây hiện ra trước mặt, van lạy rối rít. Anh dừng tay hỏi: – Ngươi muốn gì? – Xin ngài làm ởn đi chặt chỗ khác, tha cho tôi ở đây được yên ổn. – Không được. Ta đi hết hơi hết sức mới tìm được cây gỗ dễ chặt này để bán lấy tiền nuôi thân, ngươi bảo ta đi đâu! Thấy anh lại giơ búa, con vật hốt hoảng: – Cây này với tôi như bóng với hình không thể nào rời được. Ngài hãy thương cho, tôi sẽ xin biếu ngài một vật quý. Con vật bảo anh chờ một lát rồi mang đến một cái mâm đồng và nói: – Ngài chỉ cần gõ vào mâm ba tiếng là có thức ăn ngay. Muốn thức ngon vật lạ bao nhiêu cũng có. Nghe nói, anh đốn củi vô cùng mừng rỡ, vội nhận lấy mâm ra về. Khi đi qua chợ, anh ghé ngay vào quán cơm, nơi anh vẫn thường tới mua cơm ăn. Lần này, anh có ý khoe với chủ quán là từ nay mình không cần ăn chịu và cũng không cần ăn khổ như trước nữa. Nghĩ vậy, anh bèn đặt mâm của mình trước mặt vợ chồng chủ quán và mọi người rồi gõ vào mâm ba tiếng. Tự nhiên trong lòng mâm đã thấy đầy những thức ăn ngon, những thức ăn mà suốt đời anh chưa bao giờ được nếm. Trước con mắt ngạc nhiên của mọi người, anh chàng đốn củi mời họ cùng ngồi dự tiệc. Ăn xong, say rượu, anh lăn ra giường làm một giấc li bì. Lão chủ quán động lòng tham. Hắn chọn một cái mâm giống với mâm kia rồi đánh tráo. Anh đốn củi thức dậy, không biết là mâm đã bị đánh tráo, hí hửng mang về. Sắp về tới làng, anh muốn đãi làng xóm một bữa ra trò nên vào đình đánh trống ầm ĩ. Tất cả mọi người, từ lớn đến bé đều đổ ra đình đông như hội. Anh chàng đốn củi trịnh trọng lên tiếng: – Không mấy khi cháu có bữa rượu, vậy mời quý cụ và bà con ngồi vào dự cuộc. Nói rồi, anh đặt mâm xuống chiếu, gõ lên thành mâm ba tiếng. Nhưng anh ngạc nhiên thấy lần này mâm không còn màu nhiệm như lần trước nữa. Anh gõ mãi, gõ mãi, mâm vẫn trơ trơ. Cho là bị anh đánh lừa, các cụ liền sai người đánh cho anh một trận nên thân. Trở về nhà, anh bực mình vô hạn. Anh cho là con vật đã lừa anh nên chuyện mới xảy ra như thế. Vì vậy, ngày hôm sau, anh lại vác búa lên rừng tìm cái cây cũ ra sức giáng búa vào. Con vật lại hốt hoảng chạy ra van lạu và xin tặng anh một con ngựa nhả ra vàng để được yên ổn. Chỉ một lát sau, con ngựa đã hiện ra. Anh cưỡi lên phi thử một đoạn để cho ngựa há mõm. Quả nhiên có rất nhiều vàng văng ra. Anh mừng quá, cảm ơn con vật, giắt búa vào lưng và cưỡi ngựa ra về. Đến chợ, anh xuống ngựa, vào khoe với vợ chồng lão củ quán: – Lần này tôi có con ngựa vô cùng quý báu. Trong bụng nó là cả một kho vàng. Rồi nó sẽ làm cho mà xem! Lão chủ quán thấy quả đúng như thế nên hoa cả mắt. Hắn sung sướng được anh biếu cả số vàng rơi ra. Nhưng vì lòng tham lam, hắn còn muốn được cả con ngựa. Hắn vội dọn cho anh một mâm đầy rượu thịt. Chờ lúc anh ngủ say, hắn lại đi tìm một con ngựa khác cũng có màu lông hung hung y hệt để thay vào và dắt con ngựa kia đi biệt. Khi tỉnh dậy, anh chàng đốn củi vẫn không ngờ vực gì cả. Anh lại nhảy lên ngựa cưỡi về đầu làng, bụng bảo dạ: “Lần trước ta mang tiếng là đánh lừa mọi người. Lần này ta phải biếu bà con một ít vàng để bà con thấy ta thực bụng”. Thế rồi anh lại vào đình đánh trông ầm ĩ. Dân làng lại đổ ra đình. Anh nói: – Lần này, tôi có con ngựa rất quý, có phép nhả ra vàng. Vậy tôi xin biếu làng một ít. Đoạn anh phi cho ngựa há mõm, nhưng con ngựa ấy thì làm gì có vàng. Cuối cùng, anh bị làng tịch thu con ngựa và lại bị đánh một trận đau hơn. Ngày hôm sau, anh lại dậy sớm, vác búa lên rừng, quyết trị cho con vật một mẻ. Lần này, anh bổ những nhát búa rất dữ dội. Thấy con vật hiện ra, quỳ lạy khóc lóc, anh quát to: – Sao nhà ngươi dám lừa ta? Hai lần làm cho ta mang oán với mọi người. Mâm và ngựa của ngươi chỉ là những thứ bỏ đi! Con vật hết sức phân trần, vạch tội lão chủ quán, rồi nói tiếp: – Để tôi xin biếu ngài cái ống này, dùng để lấy lại những của đã mất. Con vật đưa một cái ống ra và dặn: – Cái ống này có phép làm cho mọi người phải chổng ngược chân lên trời nếu ta cầm ống chỉ lên trời ba lân. Đến khi nào gõ xuống đất ba lần thì mọi việc sẽ trở lại như cũ. Nghe bùi tai, anh đốn củi cầm ống thử xem, khiến con vật chổng chân lên trời xem thử, thấy hiệu nghiệm rồi mới ra về. Đến chợ, anh lại ghé vào quán cơm, tươi cười hỏi mọi người: – Các ông các bà có muốn chổng chân lên trời không? Vợ chồng chủ quán quen như những lần trước có lợi, liền tình nguyện. Lập tức cái ống màu nhiệm bắt cả nhà chủ quán chống hau tay xuống đất, giơ chân lên trời. Tưởng chàng đốn củi đã rõ mưu gian của mình, lão chủ quán van khóc hết lời. Hắn hứa trả mâm và ngựa để xin được tha. Khi đã lấy lại được mâm và ngựa, anh phi ngựa trở về làng. Anh lại vào đình và thúc một hồi trống như hai lần trước. Dân làng lại ra đông đủ. Anh đặt mâm xuống chiếu và mời mọi người ngồi. Tiếng gõ mâm lần này rất có hiệu quả. Cơm rượu và mọi thức ngon vật lạ hiện ra đầy mâm. Cả làng ăn uống thả sức. Ăn xong, anh chỉ vào con ngựa và nói: – Nếu làng vui lòng nhận mỗi người một ít vàng, tôi sẽ bảo con ngựa này làm ngay. Không ai từ chối lòng tốt đó. Quả nhiên, ngựa chạy đến đâu thì vàng rơi ra đến đó, mọi người tha hồ nhặt. Từ đó, anh chàng đốn củi đi khắp thiên hạ, dùng cái mâm cùng với con ngựa để giúp đỡ những người nghèo khổ, và dùng cái ống để trị tội những bọn lam lam, độc ác.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chang-don-cui-va-ba-vat-quy" }
Loài chim học xây tổ
Một lần, Phượng Hoàng, nhà thông thái nhất trong các loài chim, mở lớp học về cách làm tổ. Phượng Hoàng bắt đầu nói: – Việc làm tổ không phải là một chuyện dễ dàng. Gà mới nghe đã bắt đầu gật gà gật gù, sau đó ngáy khò khò. Cú nghĩ không biết cái anh đẹp mã này liệu có thể dạy nổi ai được việc gì. Hắn cười rộ lên khinh bỉ, rồi bay đi. – Trước hết, phải tìm trên cây chỗ nào có chạc ba… Cần phải nhặt những cành khỏe, lấy mỏ quặp lấy uốn cong lại và đan thành một cái rổ con… Nghe đến đây, Quạ vỗ cánh bay ra ngoài. – Nhưng tốt nhất, không nên làm tổ trên cây, mà làm tổ ngay dưới mái nhà… Phượng Hoàng vẫn tiếp tục nói. – Cái đó thì ai cũng biết – Sẻ làu bàu nhảy tót lên cành cao. Sau khi tổ đã bện xong, cần lấy đất sét trát lại, rải bên trong một ít rơm rác. – Cảm ơn bác Phượng Hoàng. Én cúi đầu rồi bay vút lên trời xanh. Thế là các loài chim bắt đầu làm tổ. Gà tất nhiên chẳng nhớ chứ nào trong đầu, nên loài người phải làm tổ sẵn cho nó. Cú cũng chẳng có tổ, nó phải sống trong những hốc cây tăm tối. Quạ không nghe giảng đến đầu đến đũa, vì thế tổ của nó xấu xí, ta thường nói “đầu bù như tổ quạ”. Chỉ có Én, một con chim chăm chỉ, cần cù đã làm nhà mình theo đúng cách, nên tổ bao giờ cũng xinh xắn, ấm áp.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/loai-chim-hoc-xay-to" }
Đàn vịt trời
Một hôm, Cuội [1] đến Mường Vang [2] chơi. Đi đường mệt, Cuội ngồi nghỉ bên một bờ hồ rộng. Giữa hồ, một đàn vịt trời [3] bơi lội tung tăng. Cuội đếm một con, hai con, … năm con, mười con và nhiều lắm. Đang mải ngắm đàn vịt, tiếng nhạc ngựa vang lên sau lưng làm Cuội giật mình. Cuội quay lại, thấy một lão lang [4] ngạo nghễ ngồi trên con ngựa tía. Thấy Cuội, lão lên giọng hách dịch [5]: – Thằng kia, mày làm gì đấy? Sao không tránh ngựa tao đi? Mày không biết đất nước này của ai ư? Cuội nhanh trí, đáp: – Bẩm lang, con đi chăn vịt. Con không hề biết hồ này thuộc đất của lang. Vừa nói, Cuội vừa chỉ đàn vịt trời giữa hồ. Thấy đàn vịt đông như kiến cỏ, con vỗ cánh, con ngụp đầu, bơi bơi lội lội, máu tham nổi lên, lão lang gạ [6] Cuội: – Mày bán đàn vịt cho tao! Cuội nghĩ bụng: “Lão lang này quen thói cướp không của người, phải cho lão một vố mới được”. Cuội làm ra vẻ sợ hãi, thưa: – Bẩm lang, không bán được ạ. Đây là đàn vịt cơm áo [7] của con, bán đi con biết lấy gì sinh sống. Con xin biếu lang vài đôi để nhắm rượu thôi ạ. Lão lang không chịu, cứ đòi mua cả đàn. Cuội vờ từ chối van xin mãi. Cuối cùng, lão lang dọa: – Tao thương mày tao mới hỏi mua. Cánh đồng này của tao, hồ nước này của tao. Đây là đất tao cai trị. Mạy không bán, tao cũng bắt cả đàn vịt. Thế là Cuội đành phải bán “đàn vịt cơm áo” của mình với giá mười đồng bạc trắng [8]. Khi nhận tiền, Cuội vờ buồn rầu bảo lang: – Vịt của con quen chủ, lang chớ lùa ngay. Đợi chúng ăn no, lang hãy lùa về. Lùa bây giờ là chúng tản đi mất. Nói xong, Cuội chào lang, đi thẳng. Còn mình lão lang vẫn đứng lại ngắm đàn vịt trời. Khi mặt trời sang bên kia dãy núi, xem chừng vịt đã ăn no, lão lang hí hửng [9] chèo thuyền ra lùa đàn vịt về. Nhưng vừa tới nơi thì ôi thôi, đàn vịt đồng loạt tung cánh bay vút lên bốn tầng mây. Bấy giờ lão lang ngu ngốc, tham lam mới biết mình bị mắc lừa. Lão vội lên bờ tìm Cuội, nhưng Cuội đã đi mất từ bao giờ, tìm đâu cho thấy! Chú giải [1] Cuội: nhân vật láu lỉnh, thông minh, thường xuất hiện trong những truyện vui dân gian. [2] Mường Vang: một trong bốn vùng Mường lớn của tỉnh Hòa Bình. Người Mường còn có câu: nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động để chỉ bốn vùng Mường lớn nhất của người Mường Hòa Bình. [3] Vịt trời: loài chim giỏi bay, giỏi bơi lội, thường sống thành đàn ở các vùng có nhiều hồ nước. [4] Lang: từ chỉ tầng lớp thống trị ở các xứ Mường (giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám). [5] Hách dịch: tỏ ra mình có oai hơn người bằng cử chỉ hoặc lời nói. [6] Gạ: tán tỉnh để cầu lợi. [7] Đàn vịt cơm áo: ý nói đàn vịt là tài sản, là nguồn sống chính của Cuội. [8] Đồng bạc trắng: tiền đúc bằng bạc trắng. [9] Hí hửng: mừng rỡ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/dan-vit-troi" }
Mẹo xử kiện
Ngày xưa, có một ông quan. Ông ta không ngồi ở công đường chờ dân đưa đơn hầu kiện, mà đi làng này qua làng khác, ai có điều gì oan ức kêu thì ngài xử tại chỗ, không phải chờ ngày này qua tháng khác. Ngài phát xét rất phân minh, chưa có vụ nào ngài không tìm ra thủ phạm. Có một bà mất hai con gà, chửi bới ầm í, nói những điều rất độc, nhưng vẫn không ai nhận đã lấy trộm gà bà ta. Quan đi qua, bà kêu quan: – Nhà con nghèo, trông cậy vào mấy con gà đẻ lấy trứng bán lấy tiền đong gạo. Tối hôm qua, kẻ trộm lấy hết. Con nghi co mấy người hàng xóm. Con chửi hai ngày hai đêm mà chúng nó chẳng đứa nào nhận cả. Quan nói: – Bà cứ đứng chờ đấy! Rồi ngài cho gọi những người ở cạnh nhà bà kia đến, bảo: – Bà này mất một đàn gà. Của không bao nhiêu mà nhè cha ông tổ tiên người ta chửi bới suốt hai ngày hai đêm, nói những lời độc địa, không những điếc tai hàng xóm, mà xét ra quá nhẫn tâm [1]. Ta cho mỗi người tát một cái. Nghe quan xử, ai cũng thương bà kia mất gà lại còn bị tát. Họ chỉ đến tát nhè nhẹ lấy lệ. Có một anh đến tát bà hai cái rõ mạnh, lại nói “đáng đời”! Ngàu liền giữ anh này lại, phán: – Chính nhà ngươi đã trộm gà của bà kia! Chưa giết thịt hay chưa đem ra chợ bán thì hãy trả gà cho bà ta. Không thì phải đền tiền. Anh ta chối đây đẩy. Ngài nói: – Nhà ngươi không phải chối. Ngươi đã ăn trộm gà, bà kia chửi độc, ngươi tức nhưng không làm gì được. Nay được thể, ngươi tát cho hả giận. Gã ăn trộm cúi đầu nhận tội. Đến một làng kia, có bà già mất một buồng chuối. Bà ta kể: – Bẩm quan, chỉ trong nháy mắt mà buồng chuối của con bị người nào chặt mất. Buổi sáng, con còn trông thấy! Ngàu nói: – Bà cứ về đi, để tối điều tra. Rồi ngài đi đến đầu làng, chỗ có chiếc cầu bắc qua con sông đào. Bấy giờ, ngài mới sai lính vào làng loan tin cho mọi người biết là quan đánh rơi chiếc nhẫn vàng khi đi qua cầu, ai mò được thì quan thưởng, tiền thưởng bằng giá chiếc nhẫn vàng. Mọi người chạy đến, thi nhau mò nhẫn. Mò mãi không thấy, đành lên bờ. Quan gọi từng người lại giơ tay cho quan xem. Ngài chỉ vào một người nọ, nói: – Người đưa buồng chuối chặt lúc nãy trả bà kia! Anh ta kêu oan. Ngài bảo: – Oan nỗi gì! Nhựa chuối dính tay, gặp nước bùn thì xỉn [2] lại. Ngươi xem có người nào tay đen như tay của ngươi không? Hắn phải nhận tội. Lại một lần đi qua chợ, gặp một bà già ngồi khóc. Hỏi, bà ta nói: – Bẩm quan, tôi gánh một gánh dầu đầy, chẳng may vấp phải hòn đá kia, đổ hết. Mất vốn, tôi biết lấy gì nuôi con? QUan thấy bà cụ già nua, tội nghiệp, bèn hỏi: – Hòn đá nào? Để ta tra khảo xem vì sao mà làm đổ dầu bà cụ, nói không xuôi thì phải đền tiền. Người đi chợ xúm lại, nghe quan nói như thế, không hiểu quan tra khảo ra làm sao. Đá có phải người đâu mà biết nói? Quan sai lính dựng một cái rạp [3] che tứ phía, lại bảo lính khiêng hòn đá kia vào. Một mình quan và hòn đá ở trong rạp. Lính canh ở cửa ngoài, cạnh rạp có để cái thúng. Người đi chợ đứng xung quanh càng ngày càng đông, chỉ nghe tiếng roi vút vào hòn đá và tiếng quan tra khảo. Người canh cửa nói: – Muốn vào xem thì bỏ hai đồng tiền vào thúng kia mà vào! Ai cũng háo hức [4] muốn xem quan tra khảo đá ra sao. Hai đồng tiền không đáng là bao, nên ai cũng vào. Khi thúng đầy tiền, quan mới nói: – Thấy bà kia già nua tội nghiệp, tôi bày ra cách quyên [5] tiền bà con để giúp đỡ bà ta, chứ có ai tra khảo đá bao giờ? Đá làm gì biết nói! Bấy giờ mọi người mới hiểu ý quan, ai cũng thấy việc nên làm, nên ai cũng vui vẻ đi ra, không phàn nàn một tiếng. Chú giải [1] Nhẫn tâm: tàn độc, độc ác. [2] Xỉn: ngả sang màu đen. [3] Rạp: nhà làm tạm che mưa nắng những ngày hội hè, đình đám. [4] Háo hức: ao ước muốn sớm được toại nguyện. [5] Quyên: góp tiền làm việc ích chung.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/meo-xu-kien" }
Đúc người
Ngày xưa có đức thánh Khổng Lồ, chuyên trông nom về nghề đúc và nghề rèn ở hạ giới. Đức thánh thường thân hành đi lại các nơi; khi giáng xuống miền này, lúc hiện ra xứ nọ, thành người trần, để tìm cách dạy thêm cho những người thợ về kỹ xảo. Nhưng trong khi theo dõi việc dạy nghề, đức thánh nhận thấy đám đệ tử của mình có những kẻ còn phạm thói lọc lừa điên đảo. Bởi vậy, đức thánh lại phải để tâm chữa cả thói hư tật xấu của họ. Có một người thợ đúc rong vai quảy đôi bồ trong có đủ các thứ đồ nghề linh tinh như lò bễ, khuôn, kéo, kìm, cặp, v.v... miệng thỉnh thoảng cất tiếng rao: - Ai đúc nồi, đúc sanh, đèn, chiêng, thanh la, bình hương, bình hoa, biến cũ thành mới không? Vốn nghề nghiệp thành thạo, nên hễ có ai gọi đến, ông chỉ lúi húi làm một vài ngày là xong. Thế rồi cơm ăn tiền lấy, ông lại quảy gánh lên vai chuyển từ làng này sang làng khác. Một hôm, từ sáng sớm, người thợ đúc đang bước rảo cho kịp phiên chợ. Đang đi, ông bỗng gặp một chàng trai trẻ tuổi, vai cũng quảy đôi bồ. Gã trai thấy ông thì đứng lại chào một cách cung kính, rồi nói: - Xin cho hỏi thăm một tý. Con theo thầy con học nghề đã mấy tháng nay, không may hôm trước đây, khi qua rừng, thầy trò lạc nhau, tìm suốt mấy ngày không ai biết cả. Xin hỏi ông, ông có gặp một người tên là Chu, trạc ngoài năm mươi, người cao cao, râu quai nón hay không? Người thợ đúc lắc đầu: - Ta không hề gặp một người nào như vậy. Dừng một lát, anh chàng nói tiếp, vẻ khẩn khoản: - Thật khổ quá! Con học với thầy bấy lâu có biết nghề đúc chút đỉnh, còn muốn học thêm cho thành thạo, không ngờ thầy trò mỗi người đi một đường. Bây giờ xin ông cho đi theo, con xin gánh gồng và hầu hạ chu tất. Chỉ cốt học được nghề cầm tay, ngoài ra không có ý gì khác. Chẳng hay ông có lòng thương hạ cố được không? Người thợ đúc thoạt đầu nhìn anh chàng thấy đã có vẻ ngờ nghệch, nay nghe nói thế thì tỏ ý coi khinh. Ông ta nghĩ bụng: " Đi đúc rong thì chỉ một mình mình cũng đủ, đến đâu đã có sẵn người của chủ nhà cung ứng đó rồi. Giá thử có một người quảy gánh cho thì vẫn là đỡ mệt nhưng sức mình còn khỏe, cũng chưa cần lắm. Vả chăng được một vài quan tiền công, không lẽ không chia cho người học việc " Bèn đáp: - Ta trông anh còn trẻ người non dạ, nhìn bàn tay còn trắng trẻo chưa sém tý nào. Học cái nghề này không phải dễ. Thôi, anh hãy trở về đi cày còn hơn! Nghe nói, anh chàng chắp tay cầu khẩn: - Con cũng đã biết đúc võ vẽ, thầy hãy cho con theo. Nếu làm không được, hay hầu hạ sơ suất thì lúc đó thầy đuổi con đi cũng không muộn! Thấy hắn kêu nài và cam đoan trung thành với mình, người thợ đúc bỗng đổi ý kiến, nhận lời. Chàng trai đổi buồn làm vui, sụp xuống làm lễ "bái sư", rồi trút các thứ đồ nghề, nhập gánh của mình với gánh của thầy làm một, đoạn quảy gánh lên vai đi theo ông thầy mới. Chưa đến chợ, đã có khách hàng đón thầy trò về nhà thuê đúc một chiếc sanh cỡ lớn. Ngã giá, thầy trò bắt tay vào đắp khuôn dựng lò thụt bễ, loay hoay trong mấy buổi đã làm xong. Nhưng qua công việc, người thợ đúc nhận thấy anh chàng học việc của mình còn vụng về hết sức, dường như chưa biết cái gì cả. Bởi thế, sau khi từ giã nhà chủ ra đi, trên đường, người thợ đúc cất tiếng mắng anh ta: - Tao nghe mày nói có biết nghề võ vẽ nên tao mới nhận, có ngờ đâu mày chỉ là đồ ăn hại. Ông ta không ngờ anh chàng học nghề không tỏ vẻ gì là thẹn thùng hay bối rối, chỉ ngước mắt nhìn mình rồi bình thản trả lời: - Thưa thầy, con đi theo thầy cũ của con, học được cách đúc khác kia, chứ không phải như cách đúc của thầy vừa rồi. Người thợ đúc ngạc nhiên, vội hỏi: - Sao? Mày nói mày học được cách đúc khác là đúc thế nào? - Thầy con không đúc nồi niêu, sanh chảo, bình hương, bình hoa, mà là đúc người: đúc người già thành người trẻ, đúc người xấu thành người tốt. Người thợ tưởng hắn mất trí nên càng sửng sốt: - Ô, mày nói gì lạ vậy? Tao chưa từng nghe điều đó bao giờ. - Thưa thầy thật đó ạ! Cách đúc cũng dễ, không khó khăn nặng nhọc gì lắm. Chỉ nhờ vào mấy cái khuôn của thầy con để lại, có mang theo đây. Nói rồi anh giở khuôn cho người thợ đúc xem. Trong khi thầy tò mò nhìn từng cái khuôn lạ, thì trò lại nói thêm: - Thưa thầy tuy con mới học võ vẽ, nhưng làm cũng dễ lắm, mà lại được nhiều tiền. Mỗi chuyến thầy làm nhiều lắm cũng bốn năm quan. Nhưng mỗi chuyến thầy cũ của con làm thì được những một hai trăm quan là thường. Người thợ đúc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, nhưng thấy hắn ăn nói có vẻ chân thật, nên cuối cùng bụng cũng hơi tin. Sau đó lại hỏi: - Anh có tự tay đúc được như anh nói không? - Thưa thầy, thầy con đã từng cho con tự tay làm lấy một mình, nên chắc chắn có thể làm được. - Thế thầy anh rao hàng thế nào? - Thầy con thường rao thế này: "Nào ai muốn đúc người xấu thành tốt; da mồi tóc bạc đúc thành nhan sắc nõn nà; ông lão tám mươi thành đứa trẻ mười ba; bảy mươi đúc thành mười bảy không nào?" Nghe rõ đầu đuôi, càng thêm tò mò, người thợ đúc chỉ muốn anh học nghề làm ngay cho mình xem tận mắt, liền bảo hắn: - Thôi bây giờ tôi hãy tạm nghỉ công việc của tôi, để xem cách làm ăn của anh chút đã, anh cứ rao như thế đi! Nếu có ai thuê, thì anh thử làm cho tôi xem. Nhưng nên nhớ nếu có xảy ra việc gì thì tôi không biết đâu đấy nhé! Từ giờ phút đó, thầy nhường cho trò rao và liệu tính hết mọi việc. Đến một làng nọ, một người phú hộ nghe tiếng rao liền gọi vào hỏi: - Bảy mươi đúc thành mười bảy là thế nào? Chàng trẻ tuổi đáp: - Cũng như nồi cũ đúc thành nồi mới thôi! Nhưng đây là đúc người: xấu xí ra xinh giòn, già yếu thành trẻ khỏe. Nhà chủ nói: - Tôi có ông cụ, tuổi đã ngoài bảy mươi, yếu lắm nằm liệt đã mấy năm nay, nếu đúc cho trẻ và khỏe lại được thì hay quá! Nhưng anh lấy bao nhiêu tiền công? - Tôi lấy rẻ ông một trăm năm mươi quan, và cơm ăn cho cả hai thầy trò. Ngoài ra, phải có hai mươi sảo than, mượn cho tôi một cái bung ba mươi và dọn cho tôi một gian buồng kín, không để một ai được nhòm vào. - Nếu làm được thì trăm rưởi quan cũng không đắt, nhưng vị phỏng chết người thì thế nào? - Nếu chết thì tôi xin bồi mạng. Tôi sẽ biên giấy cam đoan cho ông. Người thợ đúc từ đầu đã chăm chú theo dõi việc làm của anh học nghề. Ông thấy anh ta có vẻ thông thạo. Trước hết, anh xin giấy bút viết ngay tờ cam đoan. Trong giấy, anh hứa nếu làm không xong thì không nhận tiền, hoặc nếu làm cho khách hàng chết hay bị thương tích gì thì xin chịu tù tội. Thế rồi ung dung chờ cho cơm nước vào đâu đấy, anh dẫn thầy vào buồng kín lấy khuôn ra tô đi nặn lại, vừa làm vừa bày vẽ từng tý cho thầy. Công việc chỉ trong một buổi là xong. Chiếc bung được bắc lên một bếp lửa hồng. Đoạn, anh đưa ông già vào buồng lột áo quần đánh nhẹ một cái. Ông già ngã lăn ra chết. Không bối rối chút nào, anh đưa xác ông già bỏ vào bung, đổ nước vào, rồi vừa thụt bễ vừa đảo. Sau ba ngày ba đêm nước trong bung đã trở nên quánh. Cuối cùng anh bưng bung nước ấy đổ tất vào khuôn. Đợi nguội ba ngày ba đêm nữa, anh mới tháo khuôn ra. Quả nhiên có người từ trong đó dần dần cựa quậy, rồi nhỏm dậy bước ra, mặt mũi vẫn còn phảng phất hình trạng ông già, nhưng má hóp hóa thành má căng, tóc bạc đã trở nên đen nhánh. Suốt mấy ngày người đúc hồi hộp chờ đợi, giờ đây mới thở phào khi người chết đã sống lại, lại khỏe và trẻ đúng như lời rao. Chủ nhà thấy bố mình được "cải lão hoàn đồng" thì mừng rỡ bội phần. Ông ta vội mang tới đặt lên bàn một trăm năm mươi quan tiền bó mo cùng nhiều tặng vật, rồi tỏ lời cảm ơn hai thầy trò. Anh chàng học nghề chia ngay cho thầy mình một nửa. Người thợ đúc sung sướng quá đỗi, ngợi khen chàng trai hết lời. Trong bụng ông ta thầm nghĩ: - Kể ra làm cũng chẳng khó mà lại được nhiều tiền. Thế mà từ lâu không ai biết cả. Hai thầy trò từ giã nhà chủ ra đi. Tới một làng khác, một ông lái buôn giàu có gọi họ vào để thuê đúc lại người vợ cả lưng đã gù, răng đã rụng. Công việc lại diễn ra hệt như trước: cũng viết giấy cam đoan, cũng đưa khuôn ra đắp, rồi cũng đánh chết bà già bỏ vào bung. Nhưng lần này thì người thợ đúc không còn hồi hộp. Hắn xắn tay áo giành lấy công việc ở người học trò và chịu khó làm đủ mọi chuyện. Sau sáu ngày sáu đêm chờ đợi, khuôn được tháo ra. Quả nhiên, bà lão đã biến thành người tố nữ làm cho ai nấy đều trầm trồ kinh ngạc. Khi cầm lấy những quan tiền tốt của anh học nghề trao cho, người thợ đúc suy nghĩ: - Tất cả phép lạ đều ở trong cái khuôn kia cả. Chỉ nhờ có mấy cái khuôn của ông thầy hắn để lại mà làm ra bộn tiền. Hừ! Một cái nghề ngon ăn biết bao nhiêu! Có lẽ trẻ con nó cũng làm được. Tội gì mà không chiếm lấy để một mình hưởng lợi! Nghĩ vậy, một hôm vừa đến một làng kia, người thợ đúc liền đến trình xã trưởng, vu cho anh học nghề của mình đã ăn cắp mấy nén bạc. Chàng trai cố sức cãi lại nhưng anh không làm sao minh oan được vì lúc giở ra khám, mấy nén bạc có đánh dấu không biết tại sao lại nằm lù lù trong "ruột tượng" của anh. Cuối cùng anh bị xã trưởng cho đóng gông lại để giải lên quan. Người thợ đúc bèn chiếm lấy tất cả đồ nghề rồi quảy gánh đi miết. Hắn đi đến một làng xa mới dừng lại, nhận đúc thuê cho một nhà nọ để "cải lão hoàn đồng" một ông già ngoài tám mươi tuổi. Bắt chước người học trò, hắn cũng làm giấy cam đoan tử tế, rồi cũng giở khuôn ra tô tô đắp đắp như kiểu hắn đã được chỉ vẽ. Khi đưa ông già vào buồng, hắn cũng choảng cho ông già một vố chết lăn, đoạn bắt tay vào những công việc như hắn đã làm lần trước. Nhưng khốn thay, sau mấy ngày đêm, mở nắp khuôn ra, hắn giật mình vì nước vẫn không đông lại thành người. Hết sức lo sợ, hắn lại cố chờ thêm ba ngày ba đêm nữa mà vẫn không thành công. Mấy người con ông già chờ mãi không được, bèn phá cửa buồng mà vào. Hắn hoảng quá, xin khất thêm ba ngày ba đêm nữa. Lại ba ngày ba đêm nữa trôi qua. Cuối cùng khi mở nắp khuôn hắn mới thật sự tuyệt vọng. Mấy người con ông già xông lại, bắt trói người thợ đúc đánh cho một trận thừa sống thiếu chết, rồi đóng gông để giải lên quan. Trên đường đi, cổ mang gông, mình thâm tím vì đòn, người thợ đúc chợt thấy sự trừng phạt về lòng tham lam gian giảo của mình. Hắn hết sức hối hận. Mồm hắn hết lời cầu khẩn đức thánh Khổng Lồ, hứa xin chừa mọi thói hư tật xấu, và xin đức thánh run rủi cho anh học nghề trở lại để cứu hắn khỏi tử tội. Hắn lầm rầm cầu khẩn suốt mấy ngày trời. Đến ngày thứ ba, lúc hắn đang bị tuần áp giải từ xã lên huyện, vừa ghé vào quán nghỉ chân thì bỗng thấy người học nghề của mình đang ngồi uống nước ở quán. Người thợ đúc liền sụp lạy như tế sao, và xin anh học trò hãy rón tay làm phúc. Anh học trò cười mà rằng: - Chính ta là Khổng Lồ đây. Ta không ngờ bụng dạ của lũ các ngươi lại nham hiểm đến thế. Đáng lý ta còn trị tội nặng hơn nữa, nhưng đã tỏ lòng hối hận thì cũng tha cho. Các ngươi phải lo bảo nhau: đã đi làm cái nghề của ta thì không được dối trá lường gạt người khác. Dù có nghèo khổ đến đâu, lương tâm cũng phải cho trong sạch. Nói vừa dứt lời thì vụt một cái, mọi người không thấy anh học trò đâu nữa. Nhưng giữa lúc đó, từ ngoài cửa, một người con của ông già đã hộc tốc bước vào, nói không ra hơi: - Thôi đừng giải người ta đi nữa. Bố tôi đã sống lại rồi, hiện đang cựa quậy ở trong khuôn. Người ta nói từ đấy về sau những người làm nghề đúc ai cũng sợ đức thánh Khổng Lồ; không một ai dám gian trá khi hành nghề, nhất là đã cùng làm với nhau thì không bao giờ lừa dối nhau
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/duc-nguoi" }
Sự tích cây xấu hổ
Ngày xửa ngày xưa, có một cô gái rất đẹp. Xóm làng ai ai cũng trầm trồ khen ngợi. Tên của cô gái là Trinh, hình vóc mảnh mai, dáng đi yểu điệu. Đặc biệt cô có đôi mắt đen huyền che khuất sau đôi hàng lông nheo vừa dài, vừa sậm. Hàng ngày, cô Trinh phải gánh rau ra chợ bán để nuôi mẹ già và em dại. Trên đường ra chợ, hễ có cậu con trai nào tán tỉnh, nhòm ngó, cô luôn e thẹn cúi đầu. Hai hàng lông nheo lại sụp xuống, che khuất đôi mắt đen huyền xinh đẹp. Đã có sắc đẹp lại có đức tính tốt như thế, thử hỏi ai mà không yêu được chứ! Trong xóm có một anh học trò con nhà giàu có đem lòng yêu mến cô gái. Ngày ngày, anh đều kiếm cớ đứng đợi ở bên đường khi Trinh tan chợ, chỉ mong được tâm sự vài lời với người mình yêu. Nhưng đều bị cô Trinh từ chối khéo: – Chuyện trăm năm, phải nhờ sự ưng thuận của cha mẹ tôi ở nhà. Nhuốm bệnh tương tư, một hôm anh học trò lén đi theo sau cô mà trộm ngắm. Thừa lúc vô ý, anh chạy lại nắm lấy tay cô. Cô vội giật ra. Nghiêm nét mặt nói: – Cậu đừng làm vậy mà thất giáo. Tôi đây thà chết chứ không bao giờ để mình hoen ố. Bệnh tương tư của anh học trò ngày càng thêm trầm trọng. Cha anh là một bá hộ trong vùng, cho rằng con trai đã lớn, cần phải có người nâng khăn sửa túi. Vì thế, ông tìm một nơi môn đăng hộ đối, để định gia thất cho con. Nưng anh học trò vẫn không giải được cơn sầu. Phải chi cô Trinh là con nhà giàu có thì bố mẹ mới cho anh cưới được. Ngặt vì hoàn cảnh của cô rất nghèo khó. Sống với người vợ không vừa ý, anh học trò vô cùng phẫn chí, đi tới đi lui như xác không hồn. Sau đó, anh ta đi theo học một thầy đồ có tiếng ở một nơi rất xa. Thời gian thấm thoát không biết mấy thu qua xuân lại rồi mà hình ảnh cô Trinh vẫn còn ghi trong tâm não của anh học trò. Một hôm trở về làng cũ, anh ta đi thẫn thờ ra sau vườn mé sông ngắm cảnh. Bỗng nhiên, từ trong bụi rậm, cô Trinh bước ra. Anh học trò bất ngờ, đứng sững lại nhìn. Cô Trinh cất tiếng hát, giọng trong trẻo, mê ly lạ thường. Chợt nhìn thấy anh học trò thủa nào, cô Trinh run rẩy, day mặt lại toan chạy trốn. Anh học trò vội chạy theo, nắm tay cô, rồi ôm vóc ngọc vào lòng. Rõ ràng là đôi mắt đen huyền ngày xưa khuất sau hai hàng lông nheo dài sậm. Cậu cúi mặt xuống để hôn. Nhưng hỡi ôi nàng tắt thở. Cậu giật mình, mới biết nãy giờ mình đang cúi xuống đất mà hôn một đóa hoa màu trắng hồng, xung quanh đầy lá nhỏ mịn, thứ lá xếp lại khi có hơi gió, hoặc hơi thở nào động tới. Hỏi ra thì hay cô Trinh đã tự tử từ hai năm trước, vì có kẻ tham quan vô lại dùng quyền lực toan cưỡng bức cô. Cho hay! Chữ Trinh đáng giá biết mấy. Dẫu chết xuống âm cảnh, người thiếu nữ vẫn giữ được sự trong sạch của tâm hồn mình. Đóa hoa mà anh học trò đã hôn từ đó được gọi là hoa mắc cỡ hay hoa trinh nữ, hoa xấu hổ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-xau-ho" }
Đường lên trời
Ngày xưa, có một chàng trai tốt bụng, khỏe mạnh, làm nương giỏi, đi rừng kiếm củi nhanh gấp đôi kẻ khác mà vẫn đói rách. Anh quyết định đi tìm đường lên trời hỏi xem cớ sao mình phải khổ sở như vậy. Đi một mạch từ sáng sớm đến lúc mặt trời lặn, anh dừng chân nghỉ nhờ một nhà bên chân núi. Bà chủ nhà hỏi chuyện đầu đuôi, anh nói thực: – Tôi lên trời hỏi xem tại sao những người khỏe mạnh, chăm làm như tôi mà vẫn khổ. Bà chủ nhà liền nói: – Nhân thể cháu làm ơn hỏi giúp hộ xem tại sao đứa con gái của bác đã năm tuổi rồi mà chưa biết nói. Hay là nó bị câm? Chàng trai nhận lời. Sáng hôm sau, anh ra đi từ tinh mơ. Gặp một con sông lớn, chưa tìm được cách sang thì bỗng thấy một con thuồng luồng đen to nổi lên nhận đưa anh qua sông. Biết anh lên trời, thuồng luồng nhờ anh hỏi xem tại sao mười tám năm liền, nó chuyên cõng giúp người qua sông mà chưa hóa thành rồng được. Chàng trai lại vui vẻ nhận lời. Anh băng rừng, vượt sối đi ngày đêm không biết mỏi. Một hôm, mệt quá, anh ngả lưng vào một gốc cây to, ngủ thiếp đi. Bỗng xuất hiện một cụ già vẻ mặt hiền lành, tóc trắng như mây, da hồng như mặt trời buổi sáng. Cụ lay anh dậy, rồi ân cần hỏi chuyện. Anh lễ phép thưa: – Thưa người già, con muốn tìm đường lên trời… Anh chưa nói hết, ông cụ đã ngắt lời: – Có việc gì hỏi trời, con cứ nói với ta. Nếu giúp được con, ta không ngại. Nhưng ta đang bận. Con chỉ được hỏi hai điều thôi. Chàng trai nói: – Thưa người già, một người đàn bà ở chân núi nọ có đứa con gái đã lên năm tuổi mà vẫn chưa biết nói, không hiểu vì sao? Cụ già mỉm cười: – Muốn cháu bé nói được, thì người mẹ phải đào lấy hũ vàng bên phải và hũ bạc bên trái quả núi cạnh nhà bà đi. Chàng trai hỏi tiếp: – Con qua sông lớn, có con thuồng luồng nhà hỏi tại sao mười tám năm liền nó chở giúp người qua sông mà chưa được hóa thành rồng. – Con bảo nó nhả viên ngọc trong mồm ra thì mới bay lên được. Chàng trai vui mừng quá, cúi sát đất cảm ơn ông cụ. Khi ngẩng lên định hỏi tiếp về số phận của mình thì cụ già đã biến mất. Anh rất lấy làm tiếc nhưng vẫn vui vẻ vì đã giúp được việc cho người khác. Anh quay về. Tới sông, thuồng luồng nổi lên đón anh. Anh truyền lại lời của cụ già. Thuồng luồng cảm ơn, cõng anh qua sông rồi nhả viên ngọc ra biếu anh. Đó là một viên ngọc quý, dùng làm thuốc chữa được mọi bệnh tật, mang trong người thì hết ốm đau. Thuồng luồng hóa rồng, rồi bay về trời. Đến nhà người mẹ có cô con gái câm hôm trước, anh thấy bà đang đợi anh ở cửa. Theo lời anh truyền lại, bà đào vàng bạc lên. Lạ thay, đứa bé gái bỗng cất tiếng gọi “Mẹ ơi!”. Cảm ơn chàng trai tốt bụng, bà đưa biếu anh một nửa số vàng bạc đào được. Từ đó, chàng trai trở nên giàu có. Anh đem vàng bạc chia bớt cho những người nghèo khổ trong thôn xóm và dùng viên ngọc quý chữa bệnh cho mọi người. Ai nấy đều yêu mến, kính trọng anh.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/duong-len-troi" }
Mười hai tháng
Hiền và Nhàn là hai chị em cùng cha khác mẹ. Từ ngày bố mất, Hiền càng bị dì ghẻ và em ghét bỏ. Mụ dì ghẻ hắt hủi Hiền, chỉ vì Hiền ngoan ngoãn và xinh đẹp, còn Nhàn, con đẻ mụ ta, thì vừa xấu lại vừa ác. Một ngày nọ, giữa mùa đông rét mướt, Nhàn bảo Hiền: – Chị hãy vào rừng tìm về đây một cành đào thật đẹp. Tôi muốn chơi xuân trước mọi người. – Trời! Bây giờ làm gì đã có đào hở cô? Nhàn hét lên: – Chị phải làm theo ý tôi! Chị không tìm được hoa đào về đây thì chết với tôi. Mụ dì ghẻ đẩy Hiền ra sân, rồi cài chốt then cửa lại. Trời rét như cắt ruột. Cô bé tội nghiệp đi về phía rừng. Vừa đói bụng, vừa rét, cô bị lạc đường. Bỗng phía xa cô thấy lập lòe ánh lửa. Cô bèn nhắm theo hướng đó mà đi. Cuối cùng cô trèo lên một tảng đá to. Tại đây, có một đống củi đang cháy rừng rực. Quanh đống lửa, mười hai ông tiên đầu tóc bạc phơ, uy nghi và im lặng, ngồi trên mười hai phiến đá hoa cương lấp lánh. Ba vị mặc áo màu xanh cỏ non, ba vị mặc áo đỏ chói như hoa phượng, ba vị mặc áo vàng rực rỡ như hoa cúc, ba vị mặc áo xám như bầu trời mùa đông. Trong ba vị mặc áo xanh, có một ông, tay chống một chiếc gậy trúc dài. Đó là ông Tháng Giêng. Hiền sợ hãi, nhưng vì rét quá, cô đánh bạo đến gần đống lửa, rụt rè thưa: – Cháu xin kính chào các cụ! Cháu rét quá, cho phép cháu được sưởi nhờ một tí. Ông Tháng Giêng cất giọng ồm ồm hỏi: – Cháu đến đây làm gì? Hiền trả lời: – Thưa cụ, cháu đi tìm hoa đào. – Bây giờ làm gì đã có hoa đào? Hiền buồn rầu đáp: – Cháu vẫn biết thế. Nhưng nếu cháu về không, dì và em cháu sẽ đánh cháu. Xin cụ chỉ giúp cháu chỗ nào có hoa đào. Ông Tháng Giêng đứng lên, lấy gậy chọc vào đống lửa. Ngọn lửa bốc cao. Mưa tạnh, gió im, chim hót vang lừng. Những khúc củi cành cháy đỏ rực, bây giờ nẩy mầm, tươi mơn mởn. Rồi những cành đào nở hoa đỏ thắm vươn lên: đó là mùa xuân! – Nhanh lên cháu! Hãy bẻ cành đào đi! Hiền bẻ một cành đào to, đầy hoa và nụ. Cô cảm ơn các ông tiên, rồi vui vẻ cầm cành đào chạy về nhà. Hai mẹ con mụ dì ghẻ vô cùng ngạc nhiên. Cành đào đỏ thắm làm rực rỡ cả gian nhà. Nhàn bảo Hiền cắm hoa vào lọ, không một lời cảm ơn. Hôm sau, cô em độc ác đang nằm trong chăn ấm, chợt có ý muốn chơi hoa sen. Cô ta bèn bảo Hiền: – Chị hãy vào rừng tìm hoa sen cho tôi! – Trời đất ơi! Mùa này tìm đâu ra sen! – Chị phải làm theo ý tôi. Chị không đem sen về thì tôi cho nhừ đòn. Mụ dì ghẻ lại đẩy Hiền ra sân, đóng chặt cửa lại. Cô bé đáng thương lập cập lần theo lối cũ thẳng hướng ánh lửa hôm qua để lên núi. Cô sợ sệt đến gần đống lửa. Mười hai ông tiên vẫn ngồi nguyên như cũ. Ông tiên Tháng Giêng hỏi: – Tại sao cháu trở lại? Cháu tìm gì? – Cháu phải tìm hoa sen ạ. Ông Tháng Giêng lại cất giọng ồm ồm nói: – Không phải mùa cháu ạ. Làm gì có hoa sen vào mùa này? Hiền buồn rầu thưa: – Thế nhưng nếu cháu về không, dì và em cháu sẽ đánh cháu nhừ đòn. Xin cụ giúp cháu, chỉ cho cháu chỗ nào có hoa sen. Ông Tháng Giêng trao gậy cho một ông tiên mặc áo đỏ tươi, rồi nói: – Bác Tháng Sáu, đây là việc của bác. Ông Tháng Sáu đứng lên, cầm gậy, chọc vào đống lửa. Ngọn lửa bốc cao. Mưa tan, gió lặng, cây cỏ xanh rì, ve kêu inh ỏi, đó là mùa hè! Những đóa hoa sen cánh đỏ nhị vàng nhô lên giữa đống củi, hương thơm ngào ngạt. Ông Tháng Sáu giục: – Nhanh lên cháu! Ngắt những đóa hoa này đi! Hiền vội vàng ngắt một bó hoa to, cảm ơn mười hai ông tiên, rồi vui vẻ chạy về nhà. Dì ghẻ và em lại sửng sốt. Nhưng Nhàn vẫn khinh khỉnh, giật bó hoa, cắm vào lọ. Ngày hôm sau Nhàn lại thèm na. Lại những lời hăm dọa, chửi mắng, những cử chỉ thô bạo, độc ác… Hiền chạy lên núi và sung sướng thấy mười hai ông tiên còn ngồi nguyên tại chỗ. Lần này ông tiên Tháng Giêng hỏi ngay: – Cháu lại lên đây à? Hiền vừa khóc, vừa kể lại sự tình. Ông tiên Tháng Giêng trao gậy cho một ông tiên áo vàng rực rỡ: – Bác Tháng Tám, đây là việc của bác! Ông Tháng Tám đứng lên, lấy gậy chọc vào đống lửa. trong phút chốc, bầu trời bỗng trở lên trong xanh, lá vàng rơi lả tả. Đó là mùa thu! Trên mặt cỏ, những đóa cúc vàng nở rực rỡ. Trước mặt Hiền là một cây na sai trĩu quả, những quả na to, thơm phức. Ông Tháng Tám giục: – Nhanh lên cháu! Cháu hãy hái hai quả. Hiền nhón chân, hái được hai quả na to nhất. Hiền cảm ơn mười hai ông tiên, vui sướng chạy về nhà. Nhàn reo lên: – Những quả na trong mùa đông giá lạnh! Nhưng sao chỉ có hai quả thôi? Chị lại ngốn hết ở dọc đường chứ gì? – Cô ơi, tôi chẳng hề ăn quả nào. Các vị tiên chỉ cho tôi ngắt hai quả mà thôi! Nhàn hét: – Chị nói dối! Đồ tham ăn! Cút đi cho rảnh! Mụ dì ghẻ lấy gậy đuổi Hiền ra khỏi nhà trong cảnh mưa gió hãi hùng. Hai mẹ con mụ lấy na ra ăn, vừa tấm tắc khen ngon, vừa tiếc sao mà ít quá. Nhàn ăn còn thòm thèm, nói với mẹ: – Con vào rừng đây mẹ ạ. Con đi tìm đến cây na ấy. Rồi người ta có cho hay không, có cứ hái trụi hết, về nhà mẹ con ta ăn cho thỏa thích. Nói rồi nó vùng chạy đi ngay. Trời mưa gió rét căm căm. Ấy thế mà tính tham ăn đã làm Nhàn quên cả sợ. Cô nàng cũng hướng theo ánh lửa, lần lên đỉnh núi, thấy mười hai ông tiên oai nghiêm và lặng lẽ ngồi trên mười hai phiến đá hoa cương, quanh một đống lửa cháy rừng rực. Chẳng chào hỏi, chẳng xin phép, Nhàn cứ sấn sổ chạy đến ngồi sưởi. Ông tiên Tháng Giêng nghiêm giọng hỏi: – Cô kia đến dây làm gì? Cô muốn gì? Nhàn gắt: – Việc gì đến ông nào! Tôi muốn gì, mặc tôi. Rồi cô nàng vùng vằng bỏ đi, len lỏi vào rừng sâu. Ông tiên Tháng Giêng cau mày, giơ chiếc gậy cao quá đầu: trong chốc lát trời đất tối sầm lại, lửa tắt, mưa xối như thác nước, gió rít từng cơn. Nhàn hoảng sợ, lạc mất hướng, loay hoay mãi giữa chốn rừng sâu, rồi mất hút. Mụ dì ghẻ chờ mãi không thấy con về. Sốt ruột, vụ vào rừng tìm con. Cuối cùng mụ cũng bị lạc, mất hút trong rừng sâu. Hiền chờ mãi chẳng thấy dì và em về. Tuy bị ngược đãi, Hiền vẫn thương xót dì và em mãi không nguôi. Thế là Hiền làm chủ ngôi nhà và khu vườn, vốn xưa kia là của bố mẹ cô. Mười hai tháng không hề quên cô gái hiền lành ấy. Suốt cả bốn mùa, cô sống trong no ấm và hạnh phúc.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/muoi-hai-thang" }
Hòn đá thần
Ngày xưa, có hai vợ chồng ông Lâm, nhà nghèo lại phải nuôi một đàn con năm đứa đang tuổi ăn tuổi chơi. Hai vợ chồng làm lụng hết sức mà vẫn không kiếm đủ sống. Có một năm trời đại hạn, nạn đói diễn ra khắp mọi nơi. Hai vợ chồng cố kiếm việc làm nhưng chẳng ai thuê. Cuối cùng, nhà hết gạo, ông Lâm phải vác thuổng [1] lên rừng đào củ mài [2]. Đào mãi, sức đã kiệt mà vẫn không được gì. Nghĩ đến đàn con nheo nhóc phen này khó tránh khỏi chết đói, ông ôm mặt khóc nức nở. Bỗng có một ông tiên hiện ra trước mặt, hỏi: – Vì sao ông đến đây ngồi khóc? Ông trả lời: – Đàn con bé bỏng của tôi đến chết mất. Từ lâu chúng tôi nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng. Nhưng bây giờ thì tôi đành bó tay, không kiếm nổi miếng gì cho chúng nữa. Nghe ông Lâm kể lể, ông tiên động lòng, lấy ra một cái hũ và nói: – Ta thương ông đói khổ. Ta cho ông cái hũ này, cần bao nhiêu tiền cứ nói lên ba lần, rồi dốc hũ ra là sẽ có ngay. Nhưng nhớ là đừng có để lộ cho người ngoài biết. Ông Lâm nhận lấy cái hũ, cảm ơn rồi từ biệt. Về đến nhà, ông kể lại mọi việc cho vợ con nghe, rồi đặt hũ xuống đất nói: “Cho chúng tôi một quan tiền để đong gạo”. Quả nhiên, sau lần hô thứ ba, ông cầm hũ dốc xuống, liền loảng xoảng tuôn ra vừa đúng một quan. Từ đó gia đình ông sống no đủ. Tuy người bố đã dặn đi dặn lại, mấy đứa con dại dột vẫn để lộ cho một người láng giềng biết việc gia đình có cái hũ tiền của tiên cho. Người này đến khoét vách rình xem, thấy quả đúng như thế, bèn đi báo quan. Quan lập tức kéo lính về nhà ông Lâm, quát hỏi: – Nhà ngươi hãy đưa cái hũ ra đây, rồi cứ sự thực mà khai thì sẽ được nhẹ tội. Không thể giấu được, ông Lâm đành đưa cái hũ ra trình quan và kể lại đầu đuôi sự việc. Khi thấy những đồng tiền tròn lăn xuống, viên quan nhặt lên, ngắm nghía, đôi mắt long lên sòng sọc vì ngạc nhiên và thèm muốn. Hắn lập tức sai lính thu lấy cái hũ và bảo: – Nhà ngươi dùng phép ma thuật quỷ, đó là tội rất nặng. Hãy đem cái hũ về dinh [3] rồi sẽ xử tội sau. Mất cái hũ quý mà không biết kêu van ai, ông Lâm hết sức xót xa. Ông lại lên rừng tìm đến chỗ đào củ mài ngày trước, mong gặp lại ông tiên. Bỗng dưng ông tiên lại xuất hiện: – Có việc gì mà ông lại đến đây? Ông Lâm khóc lóc kể lại đầu đuôi việc quan cướp mất cái hũ. Nghe xong ông tiên bảo: – Ông đừng lo, ta cho ông vật này để đòi lại cái hũ. Nói rồi ông đưa ra một hòn đá và dặn: – Ông hãy đưa hòn đá này đến trước mặt quan và nói: “Hỡi đá thần, hãy thi hành công lí [4]” thì quan sẽ trả lại cái hũ. Được hũ rồi, ông nói tiếp câu: “Tha vậy!”. Ông Lâm cầm lấy hòn đá, cảm tạ ông tiên rồi ra về. Vợ chồng, cha con giả vờ thì thào với nhau về hòn đá thần. Người láng giềng tưởng ông lại có vật gì quý, liền đi trình quan. Biết tin, quan lại kéo lính đến nhà bắt ông Lâm phải nộp. Ông Lâm nhanh nhảu đáp: – Vâng, để tôi xin đi lấy. Ông lấy hồn đá thần ra và nói: “Hỡi đá thần, hãy thi hành công lí!”. Lập tức, hòn đá vọt ra, văng vào mặt quan, rơi xuống lại văng lên bốp, bốp,… Quan đau quá, bỏ chạy. Nhưng chạy đến đâu hòn đá cũng văng theo. Bọn lính xông ra cản cũng bị đá văng cho tối tăm mặt mũi. Cuối cùng, quan phải van lạy ông Lâm: – Thôi, thôi! Ta xin trả lại cái hũ! Ông Lâm bèn nói: “Tha vậy!”. Hòn đá thần lập tức ngừng bắn và trở về nằm gọn trong bàn tay ông. Cả quan lẫn lĩnh mặt mũi sưng vêu, lủi thủi kéo nhau về đưa cái hũ đến trả cho ông Lâm. Người láng giềng xấu bụng tuy chưa bị trừng phạt cũng sợ mất vía mà đến xin lỗi ông. Từ đó gia đình ông Lâm sống yên ổn và hạnh phúc. Chú giải [1] Thuổng: đồ dùng có lưỡi sắt hình khuôn, cán bằng gỗ, dùng để đào hố, [2] Củ mài: loại củ có tinh bột mọc trên rừng, củ ăn sâu xuống đất nên phải đào hố mới lấy được. [3] Dinh: nơi ở và làm việc của quan lại trong xã hội phong kiến. [4] Công lí: lẽ công bằng trong xã hội.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/hon-da-than" }
Truyện sự tích hoa nhài
Từ xa xưa trên trái đất khi loài hoa xuất hiện đều khoác trên mình chiếc áo trắng. Ngoài màu trắng thì không có màu sắc nào khác. Sắc trắng nhập tràn khắp mọi nơi làm cho thiên nhiên mang sắc màu đơn điệu. Một ngày xuất hiện một họa sỹ với những dụng cụ như mực màu, nắm bút lông vẽ. Khi đến nơi đây nhìn thấy một màu trắng bao phủ tất cả các loài hoa người họa sỹ liền giúp những loài hoa và các khóm hoa có được màu sắc yêu thích. Các đám hoa và cây cối rất vui mừng và xếp hàng để có được màu sắc rực rỡ. Nhài là loài hoa đứng gần họa sỹ nhất và hoa nhài mong muốn có được sắc vàng như của nữ thần mặt trời. Nhưng họa sỹ đã phớt lờ đi mong muốn của hoa nhài và yêu tiên cho hoa hồng. Những bông hoa hồng đều muốn có cả màu đỏ, màu vàng, màu hồng rồi da cam. Và màu xanh lá được họa sỹ dành cho hoa lu ly và hoa xa cúc. Hoa cẩm chướng với sự phỉnh nịnh dành cho họa sỹ và đã có được màu sắc yêu thích. Người họa sỹ ở lại khu vườn mấy ngày liền để cho những bông hoa đủ loại màu sắc khác nhau Hoa mẫu đơn cũng được họa sỹ dành tặng cho màu sắc rất nhã nhặn. Họa sỹ lưu lại ở khu vườn mấy hôm liền, và chàng đã ban phát cho các loài hoa đủ loại màu sắc khác nhau. Hoa Ngu Bàng lá rộng thì lại tỏ ra rất mực khiêm tốn. Khi được hỏi thích loại màu gì, nó chỉ đáp cụt lủn: "Màu gì cũng được!". Hoạ sỹ bèn bôi màu xám cho nó rồi hỏi nó có hài lòng không, nó chỉ nói: "Tôi biết, tất cả các màu mực có sắc rực rỡ, chàng đã gần cạn. Nếu ai cũng thích rực rỡ như nữ hoàng hoa hồng thì không còn ai nhận ra được vẻ đẹp riêng của từng loài hoa nữa!" Hoa păngxê với hình dáng nhỏ bé của mình họa sỹ đã dúng những sắc màu của mình để biến chúng thành những bông hoa mang sắc màu vui nhộn, nhí nhảnh. Còn hoa bồ công anh cũng đã có cho mình một bộ áo mới rất đẹp. Chỉ riêng loài hoa nhài vì không chịu cầu xin và hạ mình nên hoa đã chọc tức họa sỹ nên hoa vẫn mang màu trắng trên vóc dáng mảnh mai cho đến tận bây giờ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-su-tich-hoa-nhai" }
Sự tích cây Nhọ Nồi
Ngày xưa ở một làng kia có một cô gái rất xinh. Cô có dáng người mảnh mai, đặc biệt cô có đôi mắt xanh biếc, dài và nhọn. Cô lại khéo tay, chỉ là quần áo nâu sòng, nhưng cô may rất đẹp. Cô làm lấy những chiếc cúc trai tròn, nhỏ, có những nét chạm, khắc tinh vi. Mỗi chiếc cúc lóng lánh trên áo như một bông hoa phát sáng. Người ta bảo cô mát tay. Khóm rau nào cô trồng cũng xanh mơn mởn. Con gà mái nào cô nuôi cũng đẻ trứng rất sai… Cô lại sẵn lòng chăm sóc, chữa bệnh cho những người đau ốm. Một chút nước suối cô vỗ lên người già, người già lui cơn sốt nóng. Một nắm lá đắp cho trẻ em, trẻ em hết cơn sài đẹn. Một hôm, có giặc ở nước láng giềng kéo sang xâm lược. Cái làng nhỏ của cô ở gần biên giới bị giặc tràn qua. Chúng chặt phá vườn cây, châm lửa đốt nhà. Tàn lửa bay đầy trời như những đám mây đen dữ tợn. Những chiếc khung nhà rực hồng như làm bằng sắt nung đỏ. Trai làng ra trận hết. Cô gái cùng với một số bạn bè đưa các cụ già và trẻ em đi lánh giặc. Giặc đi qua rồi, một mình cô quay về thu dọn đồ đạc cho xóm làng. Cô đi dập tắt những đám lửa, bới tro than nhặt nhạnh những đồ ăn, thức đựng còn sót lại, bắt nhốt những con lợn, con gà sổng chuồng, chạy lạc. Cô làm suốt ngày không nghỉ, đầu tóc, áo quần phủ đầy tro than… Trời về chiều. Lúc ấy, có một đoàn quân của ta, người ngựa kéo đến, tìm đường đuổi theo quân giặc. Chính bọn giặc bị quân ta đánh tan, sống sót vừa chạy qua đốt phá làng này. Đoàn quân của ta do một vị tướng trẻ tuổi chỉ huy. Tướng quân mặc áo đen, cưỡi một con ngựa bóng loáng như một tầm lĩnh. Bụi ở vó ngựa bốc lên, trông như ngựa đi trên mây. Tướng quân đầu quấn chiếc khăn xanh màu lá mạ, lông mày đen như hai vết mực tàu đậm nét. Mặt ông vuông, quai hàm bạnh ra như góc chiếc bánh chưng bẻ lá dừa. Hai hàm răng ông nghiến chặt như đang nén một nỗi đau ghê gớm. Mà quả vậy. Kìa, vai áo ông xẻ toang một bên, cánh tay trái của ông để trần, một dòng máu chảy dài từ trên xuống. Và, gần vai, một mũi tên cắm chặt, chiếc vè tên chồng lên như một cái đuôi cá! Thì ra tướng quân vừa bị một mũi tên của kẻ thù bắn trúng, ông mải đuổi tàn quân giặc nên chưa kịp rút ra. Đến làng này, tướng quân dừng ngựa. Ông cho gọi quan thầy thuốc đến chữa vết thương. Quan thầy thuốc là một vị lão y, tóc bạc, nhưng mắt sáng lạ thường. Lão y đã từng nhiều phen đi chiến trận, đã cứu cho nhiều tướng sĩ bị thương. Lão y chằm chằm nhìn vào mũi tên cắm vào bắp thịt tướng quân. Mỗi nhịp thở của vị tướng máu lại tràn ra xối xả trên cánh tay, máu lại thấm cả vào những thớ tre và dâng lên đỏ cả nửa cây tên. Lão y nhìn thẳng vào mặt tướng quân: – Thưa tướng quân, nếu tôi có thể chặt cánh tay tôi lắp vào cánh tay người, nếu tôi có thể trút cạn dòng máu của tôi sang cơ thể người, tôi không ngần ngại. Còn cây tên này, nếu nhổ ra thì mũi thép sẽ mắc lại, không có cách nào lấy ra được. Lão y cho báo tin khắp làng ai có thể chữa được vết thương cho tướng quân, sẽ được thưởng rất hậu. Quân lính đi gọi khắp làng, không tìm được ai. Tìm mãi chỉ thấy một cô gái đang dọn dẹp giữa đám tro than, một cô gái dáng thon thả, khắp người đầy than bụi, mặt mũi đen nhẽm như trát nhọ nồi, chỉ có hai con mắt xanh biếc và hàng cúc áo trước ngực lấp lánh. Đó chính là cô gái mát tay. Tướng quân lúc này đã quá mệt. Mặt ông tái dần, mắt ông nhắm lại. Nhưng giọng nói trong như tiếng đàn bầu của cô gái đã làm ông tỉnh dậy. Ông hé mắt, đôi mắt xanh biếc của cô gái làm ông như thấy một bầu trời xanh dịu mát, có làn gió thổi hiu hiu. Quan thầy thuốc già bảo cô gái: – Cô có biết quanh đây ai là người giỏi thuốc, xin mách giùm ta. – Dạ, xóm làng lánh lạn hết, còn mình cháu. Xin cho cháu được xem thử vết thương của tướng quân. Cô gái vội vàng rửa tay. Hai bàn tay được rửa sạch bỗng hiện ra trắng ngần, những ngón tay dài mềm mại. Cô gái vừa đặt bàn tay lên vai thì tướng quân bỗng rùng mình thấy khắp người mát rượi. Vết đau vừa rồi cháy bỏng và giật đùng đùng giờ đây dịu hẳn và cơn sốt lùi hẳn đi như cơn oi bức được trận gió nồm thổi bạt. Tướng quân từ từ mở mắt và nở một nụ cười. Những ngón tay cô gái nhẹ nhàng lướt trên bắp vai tướng quân xoa nhẹ và từng li, từng li một đẩy được mũi tên trồi lên dần dần và thoắt một cái, cô đã rút được cây tên ra cả ngạnh. Tướng quân nghiến răng ghìm một tiếng rên rồi bỗng thở phào, sắc mặt ông hồng hào trở lại. Bàn tay cô gái áp chặt cho vết thương khép miệng và dòng máu từ từ cầm lại… Tướng quân cảm thấy mình khoẻ hẳn lên. Trời vừa tối thì đoàn quân lại lên đường để kịp đuổi giặc. Tướng quân ra đi chỉ còn nhớ cô gái mặt nhọ nhem có đôi mắt dài xanh biếc và hàng cúc áo bằng trai như những bông hoa trắng nhỏ. Mọi người quên không hỏi tên cô và dọc đường khi nhắc đến, ai cũng gọi cô là “Cô gái Nhọ Nồi“. Mấy năm sau, giặc xâm lược đã bị đánh tan, tướng quân mới có dịp trở lại cái làng nhỏ kia. Tướng quân hỏi thăm cô gái nhưng không biết tên cô là gì. Chỉ thấy xóm làng kể lại rằng có một cô gái mát tay hết lòng chăm sóc cho mọi người đau, ốm. Mấy năm qua, giặc nhiều lần tràn qua cái làng vùng biên giới này. Cô gái đã cứu chữa cho nhiều bà con giữa mũi tên hòn đạn của giặc. Và trong một lần xông xáo giữa trận tiền, không may cô đã ngã xuống. Tướng quân thầm nghĩ đến cô gái chữa vết thương cho mình ngày trước. Bỗng ông thấy, bên bờ rào, ngay dưới chân mình, có một cây nhỏ, thấp độ gang tay. Lá của cây xanh biếc, nhọn dài, như con mắt rất thân thương đang nhìn mình. Mấy chiếc hoa trắng nhỏ xíu như những chiếc khuy trai lấp lánh. Ông bồi hồi đứng hồi lâu. Một cụ già nói với tướng quân: – Đó là cây cỏ Nhọ Nồi. Lá cây đắp vết thương là cầm máu ngay tức khắc. Chính cô gái mắt xanh đã ngã xuống nơi này, thưa tướng quân. Và câu chuyện sự tích cây nhọ nồi người ta kể lại từ đó.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-nho-noi" }
Damb’ri - Truyện cổ tích dân tộc M’nông
Xưa kia, từ lâu lắm, ở vùng Tây Nguyên có thác Buk So (Búc So) reo vui ca hát đêm ngày. Nhưng vua Prum (Pơ-rum) ở gần đó không thích nghe tiếng thác. Lão bảo tiếng thác reo làm lòng dạ lão rất khó chịu, ăn không ngon, ngủ không yên. Lão ra lệnh cho quân lính bắt dân làng phải phá đá cho thác nước xuôi êm, dập  tắt tiếng thác reo, cho yên giấc ngủ của vua. Thế là hàng trăm nhà bị đốt phá, hàng ngàn trâu bò, lợn gà bị giết thịt. Biết bao người đã chết vì roi đòn, vì đói, vì đá rơi, xác họ bị vứt xuống nơi thác đổ. Nước căm giận trào lên, sủi bọt đỏ ngầu máu. Trong đám dân làng có một chàng trai nghèo khổ, thấy cảnh buôn làng tang tóc bèn bỏ trốn đi. Chàng chỉ mang theo chiếc gùi, mấy nắm gạo, một thanh gươm, một chiếc nỏ và một con chó. Chàng đi, đi mãi, chỉ nghĩ một điều: đi tìm cách báo thù cho buôn làng. Một hôm, chàng đi đến bên hồ nước trong veo. Con chó bỗng cất tiếng sủa. Nhìn quanh không thấy bóng chim, một dấu thú rừng, chàng xua, giục chó tiếp tục đi. Chó không chịu đi, càng sủa dữ như một con chó dại. Xua mãi không được, chàng giận con chó không biết nghe lời chủ, liền đá con chó xuống nước rồi bỏ đi. Qua bao nhiêu núi, bao nhiêu rừng, chàng vẫn nghe tiếng chó sủa bên tai. Chàng nổi giận, quay lại hồ nước, rút gươm chém con chó. Lạ thay! Chó không chết mà gươm quằn lại như chém phải đá. Chàng chém mạnh hơn. Thanh gươm tóe lửa, bật lại. Con chó vẫn trơ trơ, ve vẩy đuôi vẻ mừng rỡ. Chàng trai kinh ngạc, nhúng tay xuống hồ nước rồi vung gươm chém thử vào tay. Thanh gươm gãy đôi. Biết là nước quý, chàng bèn nhảy xuống hồ tắm, rồi vẫy gọi chó trở về cứu dân làng. Gạo hết nhưng bụng vẫn không thấy đói. Chân chàng vượt suối băng rừng nhanh như gió cuốn. Chàng muốn đọ sức ngay với kẻ thù. Thác Buk So đây rồi. Dân làng thân yêu đang bị quân lính đánh đập, thúc ép. Chàng xăm xăm bước tới, thét lớn: – Sao các người dám đánh dân làng? Bọn lính gầm lên – Đứa nào vừa nói? Bắt lấy nó! Chúng nhận ra chàng và hùng hổ xông vào. Chàng cứ đứng yên cho chúng chém. Bao nhiêu gươm dao tua tủa đâm chém vào chàng như chém vào đá. Gươm cái oằn, cái gãy. Chàng vẫn đứng sừng sững như ngọn núi. Bọn lính hoảng quá, tưởng chàng là một vị thần, vội vã bỏ chạy tán loạn. Chàng trai giật lấy một thanh gươm đuổi theo chúng, chém tới tấp khiến chúng chết như ngả dạ. Chàng đuổi chúng bảy ngày bảy đêm, tới tận kinh thành [1] vua Prum. Lính gác cản không cho chàng vào và báo lên vua Prum. Vua hoảng quá, cho quân lính ra vây đánh. Trăm đứa ra chết cả trăm, nghìn đứa ra chết cả nghìn. Nhưng quân lính đông như kiến, một mình chàng chống cự không xuể. Cuối cùng chúng hò nhau lấy dây sắt trói chàng lại, chất củi đốt. Ngọn lửa bốc cao, đỏ rực cả góc trời, chàng vẫn thản nhiên nhìn những lưỡi lửa liếm vào thân mình. Lửa cháy rần rật. Người chàng dần dần đỏ rực lên như sắt nung, ánh sáng tỏa ra sáng chói cả một vùng. Bao nhiêu dây trói đứt tan, chảy ra nước hết. Chàng xông tới đám quân lính, dang rộng hai tay ôm chặt lấy chúng. Kẻ thù cháy bùng lên như mồi lửa. Chàng ôm cả nhà cửa, thành quách, lâu đài [2]. Cả kinh đô nước Prum chìm trong biển lửa. Bọn lính độc ác thực hiện một kế cuối cùng: chúng liều chết vây bắt trói chàng, lấy một cây gậy sắt dài, uốn cong móc vào bụng chàng. Chàng trai ngã xuống như dòng thác Búc So đổ. Chàng chết vì đã quên không uống nước ở hồ thần. Thân hình chàng bốc khói, ngọn lửa căm thù còn cháy trong tim chàng, không sao dập tắt được. Dân làng mãi mãi thương nhớ chàng trai. Họ đặt tên chàng là Dambri (Đam Bơ-ri) [3] tức chàng Rừng, người con của đất nước. Ngày nay tới vùng Đắk Nông, ta vẫn còn thấy dòng thác Buk So hùng vĩ ầm ầm chảy, như hát vang lên mãi bản anh hùng ca [4] của dân tộc M’nông. Chú giải [1] Kinh thành: nơi đóng đô của vua chúa dưới thời phong kiến. [2] Lâu đài: tòa nhà to lớn, đẹp đẽ. [3] Damb’ri (Đam Bơ-ri): tiếng M’nông: Đam có nghĩa là chàng, Bơ-ri nghĩa là rừng núi. Đây là cách dùng hình ảnh quen thuộc đặt tên cho người dũng sĩ của bộ tộc, để tỏ lòng kính trọng, thân thiết. [4] Anh hùng ca: bài thơ, bài văn, bài hát ca ngợi sự nghiệp anh hùng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/dambri-truyen-co-tich-dan-toc-mnong" }
Sự tích chim Thù Thì - Truyện cổ tích dân tộc Bru
Có hai anh em nghèo khổ, nhưng lại ngủ quay lưng với nhau, nấu nồi cơm riêng, đốt bếp lửa riêng, nên càng nghèo thêm. Hai người cùng một mẹ sinh ra, nhưng tính tình khác nhau. Người anh tham lam và cáu kỉnh, còn người em thật thà và vụng dại. Mỗi lần đi làm ăn nơi xa về, người anh thường, người anh thường lân la đến sàn nhà em. Đợi cho em đi vắng, quơ vét hết của cải đem về góc sàn mình. Khi người em trở về thấy của cải nhà mình bị mất trộm, tủi thân ngồi khóc ti tỉ. Có lúc người em hỏi anh có giấu của mình không, liền bị anh xỉ vả thậm tệ. Từ đó, mỗi lần mất của, người em chỉ còn biết đem kèn khui ra thổi những điệu buồn, gửi gắm nỗi lòng cay cực của mình theo tiếng gió. Một hôm, Giàng đi chơi giữa các tầng mây (Giàng là vị thần tối cao trên trời, theo cách gọi của một số dân tộc Tây Nguyên) chợt nghe thấy tiếng kèn ngân đến tai, bèn bảo con gái: – Người nào thổi giọng kèn như con vượn ốm lạc đàn thế? Con xuống dưới ấy xem sao? Người con gái của Giàng theo vầng mây trắng sà thấp bay về bản có tiếng kèn buồn. Chân chạm đất, người biến thành một cô gái miền rừng xinh đẹp, đến dưới thang sàn người em út, gọi: – Người con trai ơi! Cho tôi lên sàn xin tí lửa châm thuốc! Thấy cô gái đẹp gọi mình, anh con trai út sợ quá, dụi tắt lửa, trả lời: – Nhà tôi không còn mẹ, không có chị gái, em gái, tôi không tiếp khách con gái. Mặc cho người em út từ chối, cô gái thoăn thoắt leo lên sàn và ngồi bên bếp lửa. Không xua được người con gái lạ, người em út vội lén trốn ra khỏi nhà. Khi biết người em út đã đi xa, cô gái lục lọi hết mọi xó xỉnh trên gác, dưới sàn. Cô chẳng thấy gì ngoài một chiếc khố rách, vài bắp ngô ăn dở và một chiếc nồi sứt mẻ của người em út. Tối ấy, cô trở về trời, bảo với Giàng: – Cha ơi! Gió lùa vào nhà người con trai ấy chỉ thấy tung tro với bồ hóng. Của cải trong nhà anh ấy có một con gà trống ăn không cứng một bọc diều. Anh ấy sống một mình buồn hơn cả tiếng kèn khui. Giàng nghe thế, ngồi trầm ngâm giây lát mới hỏi con: – Con có cách gì giúp người con trai ấy được không? Cô gái liền trả lời: – Con chỉ mang được tiếng cười về thay cho điệu buồn kèn khui của anh ấy. Giàng gật đầu, bảo: – Phải thế! Người buồn như cây héo từ trong ruột. Ruột cây héo làm canh cây khô, lá cây vàng, chồi cây không đủ sức tách lớp vỏ cây dày… Con đi đi. Sáng hôm sau, người con gái Giàng lại theo vầng mây sớm xuống lại mặt đất. Cô gái đến nhà lúc người em út đi làm vắng. Cô lo quét dọn nhà cửa, mang bầu đi xách nước, nướng chín ngô đặt lên sàn bếp. Nghe tiếng động ở chân sàn, cô gái vội náu mình vào một góc tối. Người em út thấy nhà cửa mình quang sạch, các bầu, ống đều đầy ắp nước, cả những bắp ngô cũng được nướng chín thơm tho thì lạ lắm. Anh tìm xung quanh các xó xỉnh trong nhà, lại bắt gặp đôi mắt sáng của cô gái. Anh ta sợ hãi, hỏi: – Cớ sao cô lại đến nấp trong xó tối nhà tôi? Cô gái bước ra chỗ sáng. Vẻ đẹp và nụ cười rạng rỡ của người con gái làm người con trai út lóa mắt, càng thêm run sợ. Cô gái hỏi anh: – Anh sợ tôi à? Nào tôi có gì đáng sợ đâu? Cha tôi thấy anh cực khổ, nên bảo tôi đến giúp anh! Người con trai trả lời: – Tôi không có của cho cô ăn. – Tôi đi đào củ, hái trái, tôi ăn và cả anh cùng ăn nữa. – Cô gái đáp thế. Người con trai vẫn phân vân: – Tôi làm việc nhiều mùa rẫy, nhiều tuần trăng tròn, trăng lặn vẫn không có của đổi lấy một chiếc khố lành. Cô gái cướp lời: – Cha mẹ bảo tôi về cùng anh làm vợ, làm chồng. Người con trai hoảng quá, lắc đầu nguây nguẩy: – Không được đâu! Không được đâu! Tôi không có tiền làm của bỏ. Tôi không có bạc nén, nồi đồng, bò, lợn, làm lễ cưới. Cô gái sấn tới nắm tay anh, cởi chiếc vòng đẹp trên tay mình trao cho anh, bảo: – Cha mẹ không đòi của bỏ, không hỏi của chồng để làm lễ cưới. Sau một lúc ngỡ ngàng, từ chối không được, anh con trai nhận làm chồng cô gái. Hôm sau, cô gái bảo: – Vợ chồng ta lên chỗ cha mẹ em xin của làm Khơi. Anh nắm lấy tay em mà đi. Người em út nắm lấy tay vợ bước ra sân, chợt thấy mình nhẹ bẫng và bay bổng lên không trung. Hai người bay cao mãi, cao mãi, cao mãi đến vùng trời xa xôi, nơi ở của Giàng. Giàng mừng rỡ ra đón con gái và con rể vào bản. Anh con trai dùng dằng, bảo: – Cha ơi! Con chưa có của làm lễ Khơi nên không dám cho vợ con lên nhà. Giàng nghe thấy thế, gật đầu, cho vợ chồng nghỉ lại ở chân sàn. Một ngày sau, Giàng cho trâu bò để hai người làm lễ Khơi cúng ma hai nhà. Sau ngày đó, hai người mới dám lên sàn ngồi chung bếp lửa với Giàng. Giàng rất thương đôi vợ chồng trẻ. Một hôm, Giàng đem ra tám vắt cơm và một quả trứng gà cắt ra làm tám miếng, đưa cho vợ chồng người con trai út, bảo: – Nay, ta phải đi chơi xa tám ngày, tám đêm. Các con ở nhà giữ nhà cho ta. Giữ nhà là giữ cái thang sàn không cho ai leo len. Giữ nhà là giữ sàn ngoài không cho con chim đến đậu, con rắn bò ngang. Giữ nhà là giữ chân sàn cho tối đến con trâu về có chỗ nó nằm, con ngựa về có chỗ nó dựa lưng, con lợn về có đất cho nó dũi làm ổ ngủ. Mỗi ngày các con chỉ ăn một nắm cơm, một miếng trứng. Lúc nào ăn hết cơm, hết trứng cha cho con gái, con rể rồi quay về mặt đất. Nói xong, Giang biến vào trong tiếng sấm chớp ì ầm. Vâng lời cha, hai vợ chồng người em út ở đủ tám ngày, tám đêm, làm hết mọi điều cha dặn. Khi ăn hết cơm, hết trứng, vợ chồng quay về bản cũ. Về đến mặt đất, người em út thấy như vợ chồng mình đang lạc vào một bản có nhiều nhà cửa ngang dọc, to lớn, trâu đàn, lợn bầy nhung nhúc, lại đâm hoảng, bảo vợ: – Em ơi! Ta đi chưa trọn tuần trăng, nay quay về chân đã lạc mất lối. Đầu mình kém nhớ hơn chân con trâu, hơn đuôi con chó. Người vợ vui vẻ nói: – Anh đang về đúng đường bản ta, đang vào đúng nhà ta. Cơ nghiệp này là của cho mẹ về làm giúp cho vợ chồng ta. Người con trai mừng vui vô hạn, hai vợ chồng từ nay được sống no đủ, sung sướng. Một tuần trăng sau, người anh đi làm xa trở về, bỗng thấy mình bị lạc vào một bản nhà giàu có, liền ù chạy vào rừng. Mãi chiều anh lần dò từng bước theo lối cũ đường xưa về lại bản, vẫn đi nhầm vào bản giàu. Đang lúc ngơ ngẩn, bàng hoàng, người anh nghe giọng người quen gọi mình. Người anh ngoái đầu lại và nhận ra đứa em út. Người em út chạy ra tận đường bản kéo anh lên sàn, kể hết sự tình may mắn của mình cho anh nghe. Người em bảo: – Nay em đã có của cải nhiều. Anh em mình hết khổ rồi. Ta ở chung với nhau để làm ra nhiều của cải hơn nữa. Vợ em sẽ lo nấu cơm, lo vấn thuốc cho anh em ta. Nghe em nói, lòng tham của người anh cứ chồm lên từng đợt như gió lớn xoáy vào thung lũng hẹp. Anh ta đưa mắt nhìn quanh, tìm xem chiếc kèn khui của người em út để ở đâu, chứ không còn lòng dạ nghe em bàn chuyện làm ăn nữa. Người em út thấy anh ngồi lặng thinh, vầng trán đôi lúc cau cau, tưởng anh cũng đang suy nghĩ, tính toán việc làm ăn như mình, nên lặng lẽ xuống sàn đi ra rẫy. Thấy em út đi khuất sau lối ngoặt đường bản, người anh men đến góc nhà, lấy cắp chiếc kèn khui, giấu vào gùi mình, mang ra rừng, đi về phía hẻm thung lũng xa. Đến một vùng trảng, người anh dựng lên một chiếc chòi tồi tàn, rách nát. Ngồi trong chòi đó, anh khóc nỉ non về số phận đói khổ của mình. Hết khóc, anh ta lại lấy kèn khui ra thổi điệu buồn. Tiếng khèn lại bay vút qua lưng đèo, đỉnh núi, lan lên vầng mây trắng, tầng mây xanh và đến tai Giàng. Cảm động thương xót vì giọng kèn, Giàng lại cho một người con gái nhà trời về hỏi thăm. Người con gái vừa đến chân sàn, người anh đã vồn vã chạy ra đón và kéo vào làm vợ làm chồng. Chưa tới một ngày, người anh đã giục vợ đưa lên gặp Giàng để xin của cải, nhà cửa. Người vợ chiều lòng chồng. Ngay tối hôm đó, hai người lẩn vào bóng đêm theo sương giá, gió lồng mà bay bổng lên trời. Đến đầu đường bản Giàng, người anh lại giục vợ đưa mình lên gặp Giàng ngau. Giàng nhận ra đôi vợ chồng mới, niềm nở chạy xuống đón. Chẳng cần ý tứ, phép lệ của Giàng, người anh kéo vợ lên thẳng sàn nhà Giàng. Người anh vừa ngồi xuống chiếu thì chiếc chiếu đã rung lên, xô người anh ngã dúi xuống. Anh ta vội nắm lấy cột sàn ngoài. Cột sàn ngoài lại lung lay như cây con giữa cơn lốc xoáy. Hoảng quá, anh ta kéo vợ nhảy đại xuống nền đất sàn nhà, cáu kỉnh mắng vợ: – Xứ này là xứ ma, xứ quỷ rồi. Giàng nghe thế giận lắm. Chính anh ta không giữ đúng phép của Giàng, chưa làm lễ Khơi đã vội đưa vợ lên nhà cha mẹ vợ, lại nói xấu xứ của Giàng nữa. Người vợ biết thế, nhưng không nói gì. Giàng lại hiện ra trước mặt hai người, trao cho họ tám vắt cơm bằng tám quả ổi, và một quả trứng xẻ tám, bảo: – Ta phải vắng nhà tám ngày, tám đêm. Mỗi ngày hai đứa con chỉ được ăn một nắm cơm với một miếng trứng gà. Các con ở nhà giữ nhà cho ta. Giữ nhà chỉ được ngồi sàn ngoài, uống nước ống tre, ngủ kê đầu lên bậc cửa. Giữ nhà là giữ cái thang sàn không cho ai leo lên. Giữ nhà là giữ cái sàn ngoài không cho con chim đậu, con rắn bò ngang… Nghe Giàng nói đến đâu, người chồng gật đầu lia lịa đến đó, mà mặt mũi thì cau có ra vẻ khó chịu. Dặn xong lời gần, lời xa, chuyện lớn, chuyện nhỏ, Giàng biến mất. Người anh thấy vắt cơm, miếng trứng ít ỏi thì lại bực bội, cau có bảo vợ: – Ngỡ lên Giàng được sung sướng, chớ đâu lại thiếu thốn thế này! Gần trưa, anh ta nhồi luôn bốn vắt cơm và nửa quả trứng gà vào miệng, nhai ngấu nghiến và nuốt ực. Thấy anh chồng tham lam và lỗ mãng, người vợ rất buồn, bỏ đi vào rừng biệt tích. Đến chiều, người chồng lại ăn nốt số cơm, trứng còn lại, không dành cho vợ một miếng nào. Ăn uống no nê, anh ta nghĩ lại những lời Giàng dặn có chỗ đáng ngờ. Cớ sao Giàng lại không cho vợ chồng anh vào nhà. Tại sao Giàng lại bắt anh ăn, nghỉ ở sàn ngoài, gác đầu lên bậc cửa, mà không cho ngủ bên bếp lửa? Nghĩ suy mông lung một lúc, anh ta quyết vào nhà trong xem sao. Trong sàn cao nhà Giàng có chất một dãy dài chum chĩnh. Người anh tò mò, ngắm nhìn một lúc lâu, rồi mở nắp chiếc chum đầu hàng. Một con gấu lớn thò đầu ra, nhe nanh và với tay toan tát vào mặt anh ta. Hú vía, anh nhảy lùi lại, định quay ra sàn ngoài. Nhưng lòng tham, háo hức cưỡng chế anh mãnh liệt, anh ta dè dặt đến mở nắp chiếc chum cuối hàng. Chiếc nắp vừa bung ra, liền có tám đầu rắn bật cao, lăm le mổ vào mắt, vào tay anh. Người anh thấy vậy, vừa khiếp đảm, vừa phát cáu, chửi vung ầm nhà. Con gấu và lũ rắn thụt đầu xuống thấp, nhưng mắt chúng vẫn lừ lừ nhìn theo. Anh bước lùi, toan ra cửa, chợt thấy có một chiếc vò đẹp nằm ở góc nhà. Anh ta lại đến gần, dùng tay nạy bật chiếc nắp ra. Một luồng ánh sáng xanh rờn mát dịu từ trong vò chiếu ra khắp nhà, làm các con vật ác đều co rúm, thụt đầu vào chum. Nhanh tay, anh ta lấy nắp đậy kín được hai chiếc chum kia lại. Với tất cả lòng tham lam và tò mò, anh ta chạy đến xem vật lạ trong chiếc vò đẹp. Vò rỗng không. Đáy vò là một chiếc gương thần, soi rõ hết hang cùng ngõ hẻm ở mặt đất. Anh ta húc đầu vào vò, dán mắt vào đáy vò để được xem cho tường tận, rõ ràng. Nhận ra con khe quen chạy dưới đường bản, dãy núi cao nơi nhà anh ta dựa lưng. Nhìn ra dãy nhà to rộng của đứa em út, anh ta cau cau vầng trán ra vẻ khó chịu, ghen tuông. Chợt anh thấy Giàng đang phá chiếc chòi giữa rừng của anh. Giàng biến mỗi tấm lá cọ che nhà anh thành một mái nhà đẹp, biến mỗi cột nhà sàn thành dãy hàng rào quanh nương, quanh bản. Giàng ném vung từng chiếc xương thú có trong nhà anh ra khắp mặt đất. Chốc sau, mỗi chiếc xương kia lại biến thành những con trâu, con lợn chạy tung tăng khắp đường bản. Sướng quá, anh ta reo to làm căn nhà sàn rung lên bần bật. Qua gương thần, anh ta thấy ở mặt đất, nơi vùng nhà Giàng mới dựng bỗng chốc khỏi lừa bùng cháy ngùn ngụt. Bốn phía vùng trời dưới ấy sấm chớp nổi lên ầm ầm, giần giật. Hốt quá, anh ta rụt đầu lại. Ôi thôi! Miệng vò đã thu hẹp từ lúc nào, ôm khít lấy cổ anh ta. Khiếp đảm vì bị bưng tai, bịt mắt trong vò chật tối om, anh ta hoảng loạn trong nhà, xô đổ vỡ cả chum chĩnh loảng xoảng, làm rắn rết, chim muông, thú dữ vung ra ngoài, chạy loạn xạ, rơi bừa xuống cả mặt đất. Giàng biết có sự chẳng lành ở nhà, vội bay vụt lên bản trời. Vào nhà thấy tên con rể đọi chiếc vò chạy quàng làm đổ hết chum chĩnh trong nhà và số ác thú đã biến đi cả. Giàng hiểu ngay cơn cớ về ngọn lửa cháy dưới mặt đất, Giàng càng thêm hãi hùng về những tai nạn sẽ xảy ra ở mặt đất khi lũ ác thú về tung hoành dưới đó. Tức giận vì đứa con rể mất nết, xấu tính, Giàng vung gậy đánh tan chiếc vò trên đầu anh ta, đạp dúi luôn anh ta quay lộn nhà trở về với vùng đất đang ngun ngút cháy cằn. Vừa chạm chân xuống đất, người anh tưởng Giàng còn đuổi theo, bèn đâm quàng, chạy chui vào bụi rậm lẩn trốn. Đến đêm, lúc mọi người ngủ, Giàng ngủ, anh ta mới rên hừ hừ, lần mò ra các vùng khe, bãi lầy mò bắt con cua, con cá ăn lót bữa. Hễ nghe tiếng động đâu đấy, anh ta lại tưởng Giàng đang rượt đuổi theo mình, nên lại chui nhanh vào bụi cây, đống cỏ lẩn trốn. Sống len lỏi được hơn một tần trăng, thì người anh tham lam ấy rục xuống chết, biến thành con chim Thù Thì (chim Rầu Rĩ) chuyên rên hừ hừ, đi kiếm ăn lúc đêm đã về khuya, lúc mọi người và cả Giàng nữa đã ngủ yên. Ấy thế, nhưng nghe một tiếng động, tức thì chim Thù Thì lao vào bụi cây, đống cỏ trốn lủi im thin thít. Chẳng bao giờ con chim Thù Thì dám nhìn trời cao, đất rộng và dám đi ăn giữa ban ngày như muông vật khác, là bởi lẽ thế.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-chim-thu-thi-truyen-co-tich-dan-toc-bru" }
Sự tích người làm chúa muôn loài
Ngày xưa, cõi trời và cõi trần ở rất gần nhau, cũng giống như cõi trần và cõi nước ở liền sát bên nhau vậy. Trong một ngày, tất cả muôn loài ở trên ba cõi đều có thể đi lại chơi bời vài ba bận mà trời vẫn chưa tối. Vua của thiên đình là Ngọc Hoàng cai quản tất cả muôn loài trên ba cõi. Nhưng vì muốn cho các tôi muôn loài ở trên cõi trần và cõi nước có một vị đại diện coi sóc hàng ngày, Ngọc Hoàng đặt ở cõi trần một vị vua nhỏ gọi là hoàng đế và đặt ở cõi nước một vị vua gọi là thuỷ tề. Thời ấy, hoàng đế ở trần gian là Rùa, còn thuỷ tề ở cõi nước là Thuồng Luồng. Nhưng ở cõi trần, muôn loài ngày càng chia ra làm nhiều giống vật và sinh sôi nảy nở. Hoàng đế Rùa chân ngắn mai dày, đi lại chậm chạp, không còn đủ tài đủ sức cai quản muôn loài được nữa. Vì vậy nhiều lần hoàng đế Rùa tâu lên Ngọc Hoàng xin từ chức, để một loài khác lên ngôi. Nhưng khi Ngọc Hoàng hỏi Rùa nên cử ai thì Rùa cũng lúng túng, vì Rùa chưa biết kẻ nào thật sự xứng đáng. Có những lần, Ngọc Hoàng và hoàng đế Rùa bàn luận hàng vài tháng, điểm qua hết thảy muôn loài nhưng vẫn chưa tìm được kẻ đáng tin cậy nhất để làm vua thay Rùa. Một hôm, Ngọc Hoàng tìm ra được một kế, bèn cho gọi hoàng đế Rùa ở trần gian lên bàn bạc, rồi về loan báo cho muôn loài: “Đức Ngọc Hoàng đã băng hà, ai có lòng tưởng nhớ đến Người thì lên thiên đình phúng viếng”. Ngọc Hoàng có ý định là qua sự phúng viếng của muôn loài sẽ chọn lấy kẻ nào đó có ý thực tâm thương xót mình nhất thì cho làm vua trần gian. Nhận lệnh của Ngọc Hoàng, về tới trần gian, hoàng đế Rùa phải đi suốt ba tháng ròng rã mới loan báo được hết cho khắp các loài biết. Được tin ấy, muôn loài ở trần gian rủ nhau lên thiên đình để phúng viếng và vào tế Ngọc Hoàng. Hoàng đế Rùa cùng đi, nhưng thỉnh thoảng vẫn dừng lại dọc đường để nghe ngóng và hỏi thăm những loài đi chậm. Muôn loài từng đàn lũ lượt kéo nhau lên thiên đình. Trước tiên là loài chim, vì chúng cậy mình nhẹ người lại có cánh nên rủ nhau bay vùn vụt. Trên đường đi, thấy hoàng đế Rùa chậm chạp lê từng bước một, chúng còn quay lại chế giễu. Thứ hai là đoàn thú rừng, đi đầu là các giống hươu, nai, theo sau là các giống chồn, sóc, thỏ, sau cùng là giống hổ, lang… Đoàn này nối đuôi nhau, hung hăng xông xáo, đi đến đâu cũng kêu la inh ỏi, làm động cả đất, dạt cả cỏ, đổ cả cây. Khi vượt qua hoàng đế Rùa, chúng cũng thi nhau trêu tức. Thứ ba là loài bò sát, gồm: rắn, rết, thằn lằn, kỳ nhông, trăn gió… cũng không kém phần hung hăng. Chúng cũng bỏ xa Rùa. Có con còn phun bọt vào mắt, làm cho Rùa phải thụt đầu lại. Sau cùng là đoàn người. Loài người đi rất thong thả. Họ vừa đi vừa kể cho nhau nghe công lao của Ngọc Hoàng đối với muôn loài, đặc biệt là đối với loài người. Họ ca tụng Ngọc Hoàng phải chịu nhiều khó nhọc khi ấp ủ làm ra đất trời, sinh ra cỏ cây và muôn loài. Đi được nửa đường, đoàn người lại gặp hoàng đế Rùa đang cất từng bước chân nặng nề, mỏi mệt. Họ liền thay phiên nhau cõng hoàng đế Rùa cùng đi cho nhanh. Tất cả các loài đều đã đến thiên đình. Khi vào tế lễ, loài chim đến trước nên được mời vào trước. Chúng đứng con trên con dưới, con dọc con ngang, con quay mặt lên, con quay mặt xuống rất lộn xộn. Lũ chim gào lên: – Hỡi Ngọc Hoàng! Hỡi Ngọc Hoàng! Vua nhà trời mà còn chết được sao? Chúng tôi cứ tưởng rằng đã là vua nhà trời thì phải sống để ngày đêm làm mưa làm gió, bắt sống bắt chết chứ. May mà Ngọc Hoàng chết đi, loài chim chúng tôi sẽ được bay lượn tự do. Hỡi Ngọc Hoàng! Thật là thương tâm! Bầy lũ chúng tôi từ nay sẽ được tung hoành rộng cánh. Nằm giả chết ở trên giường, nghe lời chim chóc khóc than, Ngọc Hoàng giận ứ đến tận cổ. Chúng chỉ khóc lóc, kêu gào ở ngoài mồm. Con nào mắt cũng ráo hoảnh. Chúng tuôn ra toàn là những lời châm biếm mỉa mai. Bao nhiêu lần Ngọc Hoàng toan vùng dậy đánh cho chết bọn bội bạc, nhưng cố nén sự bức tức của mình lại để còn thử lòng các loài khác nữa. Kêu than giả dối một hồi, đàn chim láo nháo đi ra nhà ngoài chờ ăn uống. Tiếp đến đoàn thú rừng vào tế. Chúng đứng ngổn ngang, lộn xộn hơn cả loài chim. Đến giờ cử ai, tiếng khóc của chúng lại càng ồn ào. Giống hươu, nai khóc vang trời, làm inh tai nhức óc. Giống hổ báo gầm gừ, nhe nanh, giơ vuốt làm cho ai cũng phải run sợ. Chúng cũng mắt ráo hoảnh cùng một giọng mỉa mai. Đến lượt loài bò sát cũng vậy. Lộn xộn, ồn ào, giả dối lộ ra trong cách ngồi, cách trườn, trong tiếng khóc kêu gào. Có con còn tỏ ra ngạo mạn, hung hăng, bội bạc hơn cả loài chim, loài thú. Ngọc Hoàng nghe thấy rõ hết, nhưng vẫm cố nén lòng chờ đoàn người vào tế xong sẽ liệu. Đến lượt đoàn người vào tế. Họ biết nghe lời nhau, đứng xếp hàng im lặng, kẻ trên người dưới. Người nào cũng mắt buồn rười rượi. Hàng trên không ai nói một lời, hàng dưới không khí im lặng không ai hé một câu, và chính cái không khí im lặng ấy càng làm cho buổi tế trở nên nghiêm trang. Theo lệnh của người đứng đầu, tất cả đoàn người cùng một lúc cất lên tiếng khóc. Họ cùng nhau khóc lóc và than rằng: – Ôi! Đức Ngọc Hoàng sáng tạo và cai quản muôn loài. Thương Ngọc Hoàng như thương mẹ, nhớ Ngọc Hoàng như nhớ cha. Công ơn Ngọc Hoàng như trời cao biển rộng. Xin được quỳ trước vong linh của Người, chúng tôi dâng cả tấm lòng biết ơn của loài người đối với Ngọc Hoàng. Hỡi đức Ngọc Hoàng. Hỡi đức Ngọc Hoàng! Khóc lóc kêu than xong, đoàn người còn xụp lạy, ai cũng nước mắt chảy thành dòng. Nằm im trên giường nghe tiếng khóc thảm thiết, Ngọc Hoàng cảm động vô cùng. Chờ muôn loài tế xong, Ngọc Hoàng vùng nhổm dậy, rồi vẫy gọi tất cả lại gần và nghiệm nghị nói: – Ta bày ra trò này chỉ là để thử lòng muôn loài đấy thôi. Hiện nay hoàng đế Rùa đã già yếu, ngày càng chậm chạp, ta muốn tìm kẻ có tài có đức lên thay, nhưng chưa biết chọn ai. Cho nên ta muốn qua buổi phúng viếng này mà chọn lấy một loài vừa có nhân lại vừa có đức và có lòng chủng thuỷ đối với ta để lên ngôi thay hoàng đế Rùa. Thông qua cuộc phúng viếng và tế lễ này, ta đã biết ai tốt, ai bội bạc. Vì vậy, bây giờ ta có thể chọn kẻ xứng đáng lên ngôi hoàng đế. Thấy Ngọc Hoàng còn sống, phán như thế, các loài chim và thú rừng quay lại trách móc lẫn nhau, vì quá nông nổi đã trót nhỡ lời mỉa mai, châm biếm Ngọc Hoàng. Nhưng chúng vẫn quyết định tranh giành ngôi hoàng đế cõi trần cho tộc mình. Loài chim bèn đưa ngay Diều Hâu ra ứng cử. Chúng hết lời tán tụng Diều Hâu có tài bay cao, bay khoẻ, chỉ một lúc có thể bay đi toàn thiên hạ. Diều Hâu có đôi mắt tròn xoe và sáng quắc, có cái nhìm thấy được tất cả mọi điều hay, cái dở của muôn loài, để đặt ra các hình phạt hoặc có phần thưởng một cách chính xác. Diều Hâu lại có cái mỏ quặp và cứng với bộ móng sắc và nhọn, sẽ có đủ tài lực để mổ thủng đầu, xé tan xác những loài, những giống ngang ngạnh và bướng bỉnh. Loài thú rừng cũng hăm hở đưa chàng Hổ ra ứng cử. Chúng bảo rằng Hổ có tài nhảy cao và chạy xa, một loáng có thể đi khắp nơi, mọi ngõ ngách, từ ngọn suối đến cuối ghềnh, từ nơi hang cùng ngõ hẻm đến các nơi hẻo lánh, nên có thể đủ sức để xem xét muôn loài. Hổ lại còn có sức khoẻ vô địch, có bộ nanh sắc, có bộ vuốt nhọn, thừa sức quật chết tươi bất cứ loài nào không chịu tuân theo lệnh của hoàng đế. Loài bò sát thì hết lời tán dương Rắn. Chúng bảo Rắn có tài bò lên trên các cây cao xem xét các loài chim, lại có tài trường mình khắp mặt đất để thăm hỏi các loài thú, có tài lén lút chui vào mọi làng mạc xó xỉnh để dò xét từng việc làm hay dở của các loài. Loài người vẫn chưa lên tiếng, họ có ý chờ Ngọc Hoàng kén chọn, nhưng hoàng đế Rùa vốn mến loài người có nhân nghĩa, tài trí nên tiến cử. Ngọc Hoàng đồng ý, phán rằng: – Ta cũng có ý như hoàng đế Rùa. Vậy ta bằng lòng chọn loài người lên ngôi và thay hoàng đế Rùa cai quản muôn loài ở cõi trần gian. Nghe Ngọc Hoàng phán chọn loài người lên ngôi hoàng đế, Hổ tức giận trợn tròn mắt xanh lè, giơ vuốt nhe nanh, gầm lên vang trời, toan nhảy bổ vào cắn xé người. Diều Hâu cũng trừng đôi mắt, xòe năm đôi móng sắc nhọn, quắp cái mỏ quặm, định bay vù lại mổ loài người. Loài rắn cũng trợn tròn đôi mắt lồi, bành cổ phun bọt phì phì, định lao mình vào nhả nọc độc. Ngọc Hoàng trợn mắt quát lớn. Tiếng quát của Ngọc Hoàng vang rền như sấm động, làm cho lũ Hổ, Rắn, Diều Hâu phải đứng sững cả lại. Chúng nép vào nhau, run cầm cập. Ngọc Hoàng phán tiếp: – Loài người có trí thông minh, biết giữ đạo lý, biết trọng nhân nghĩa, cho nên được ta chọn làm hoàng đế, cai quản muôn loài ở dưới cõi trần. Tất cả các loài từ nay đều phải nghe theo lệnh của loài người. Hổ có bụng dạ xấu xa, từ nay phải chịu cho người ăn thịt và ninh xương. Diều Hâu độc ác, từ nay sẽ phải chịu cho người săn bắt. Còn Rắn thường phun người bằng nọc độc thì sẽ phải chịu cái hình phạt nằm co quắp ở trong hang, chịu nhịn đói suốt nửa năm và chỉ được ra ánh sáng khi có mặt trời chiếu sáng. Loài thảo mộc hôm nay không chịu đến chầu, ta ra lệnh cho loài thảo mộc nhất nhất phải chịu lệnh của loài người, không được cưỡng lại. Sau đó, Ngọc Hoàng lệnh tan buổi chầu. Muôn loài ở đâu lại về đấy. Loài người trở về lên ngôi hoàng đế, thay Rùa trị vì trần gian. Từ đó, người được săn bắt loài thú, đánh bẫy loài chim, có quyền chặt cây, đốn gỗ, cắt cỏ, hái quả, lượm hạt bất cứ loài thảo mộc nào. Loài thảo mộc y lệnh của Ngọc Hoàng, nhất nhất nghe theo sự sai bảo của con người. Duy chỉ có Hổ, Rắn và Diều Hâu hãy còn bướng bỉnh. Chúng không hoàn toàn tuân lệnh Ngọc Hoàng. Nhưng chúng cũng không dám công nhiên phản lại loài người. Hổ còn rình vồ trộm loài người tha về rừng ăn thịt, Diều Hâu bất chợt sà xuống tha vụng vài con gà của người đem tít lên ngọn cây. Loài Rắn còn lén lút thả nọc độc vào một vài người vô ý. Tuy Hổ, Rắn và Diều Hâu có bụng độc ác, nhưng chúng đều rất sợ uy của loài người. Mỗi khi gặp người, chúng đều thường tránh mặt. Vậy là loài người có quyền cai trị trần gian từ đó.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-nguoi-lam-chua-muon-loai" }
Hò Kính Thán
Hò Kính Thán mồ côi cả cha lẫn mẹ từ hồi còn nhỏ. Chàng sống và lớn lên dưới bàn tay chăm sóc của các bác, các chú trong bản. Từ khi lên tám chàng đã phải chăn trâu thuê để kiếm ngày hai bữa. Năm 15 tuổi chàng phải đi vào rừng làm than. Lúc nào người chàng cũng bám đầy bụi than đen thủi đen thui. Vì vậy người ta gọi chàng bằng cái tên Kính Thán. Dần dần cái tên đùa giễu ấy đã trở thành tên thật của chàng. Ngày nào đem than ra chợ bán cho lò rèn, Kính Thán cũng đứng lại rất lâu ngắm nghía công việc làm của bác thợ rèn. Thấy vậy, bác thợ rèn hỏi Kính Thán có thích nghề rèn không? Bác nói thêm : - Nếu chú thích nghề rèn thì đến đây tôi sẽ truyền nghề cho mà làm ăn. Cái nghề này rất quý và cần chọn người, khỏe như chú có thể làm được đấy. Tôi không có con để nối nghiệp, nếu chú bằng lòng thì ở đây với tôi làm con nuôi, cha mẹ chú hiện nay ở đâu? Làm nghề gì? Hàng ngày chú bán than có đủ ăn không? Vốn sống cô đơn, thấy có người ân cần hỏi chuyện mình, Kính Thán rất cảm động. Chàng thấy có thiện cảm với bác thợ rèn bèn nhận lời ngay sau khi tỉ tê kể hết cuộc đời mình cho bác nghe. Thế là từ đấy, Kính Thán theo họ Hò của bố nuôi và ở lại đây học nghề nghiệp mới. Hò Kính Thán ăn rất khỏe và làm rất khỏe. Vốn đang tuổi ăn tuổi ngủ, từ khi về ở với bố mẹ nuôi, chàng được ăn no ngủ kỹ, nên càng khỏe mạnh hơn và làm việc hăng hơn. Chỉ trong mấy ngày làm than, chàng đã dự trữ cho bố mẹ đủ than dùng trong suốt một năm. Bác thợ rèn họ Hò rất hài lòng. Duy chỉ có vợ bác là không vui vì cậu con nuôi ăn quá nhiều, bà thường phàn nàn với chồng làm cho bác thợ rèn phải suy nghĩ. Một hôm bác thợ rèn bảo con nuôi: - Nay than đã nhiều rồi, bây giờ con hãy đem tiền đi mua trữ cho bố một ít sắt. Tuy chưa buôn bán bao giờ, Hò Kính Thán cũng mạnh dạn cầm hơn năm mươi lạng bạc của bố mẹ nuôi ra đi. Chàng đi đến một thành phố, thấy người ta đang thu sắt vụn, chàng bèn đến gần lân la hỏi chuyện và cuối cùng bỏ luôn số tiền ra mua tất cả đống sắt vụn ấy, đoạn chàng thuê người chuyển số hàng về nhà. Thấy đoàn người gánh sắt về, bác thợ rèn vui mừng trong dạ. Nhưng khi nhìn kỹ thì thấy tất cả chỉ toàn là sắt vụn, sắt rỉ, bác ngao ngán thở dài. Vợ bác càng xót ruột hơn. Bà luôn mồm dằn vặt chồng làm bác càng thêm buồn. Tuy vậy bác cũng bảo vợ : - Thôi được! Nhiều lần dại sẽ khôn, con ta chưa quen buôn bán nên mới mua phải của không tốt. Tôi tin là lần sau, lần sau nữa con ta sẽ khôn khéo hơn, bà nói ra nói vào vừa vừa thôi, để tôi còn làm việc. Hò Kính Thán cũng rất ân hận vì đã chót mua phải hàng xấu để đến nỗi làm phiền lòng cha mẹ. Một lần khác, bác thợ rèn lại đưa bạc cho Hò Kính Thán đi tìm mua sắt, bác dặn đi dặn lại là phải đi tới các thành phố lớn để mua được hàng tốt. Hò Kính Thán lại một lần nữa vác túi bạc một trăm lạng lên đường. Đi suốt bảy ngày ròng, đến gần một thành phố lớn, chàng gặp một đoàn người đang nhộn nhịp xây cầu, nhìn lên cái biển có dòng chữ to treo ở đầu câu, chàng hỏi thì người ta đáp : - Đây là cái bảng ghi tên những nhà hảo tâm quyên góp xây cầu này, ai quyên góp nhiều nhất thì được ghi tên đầu bảng. Hò Kính Thán lại hỏi : - Thế hiện nay người góp nhiều nhất được bao nhiêu? Người ít nhất bao nhiêu ? Người kia đáp : - Cho đến ngày hôm nay người góp nhiều nhất là năm mươi lạng bạc, người góp ít nhất là một lạng. Hò Kính Thán mỉm cười nói : - Nếu thế thì anh hãy ghi tên ta là Hò Kính Thán vào bảng đi, ta góp cả một trăm lạng bạc tinh ngân để giúp bà con xây chóng xong cái cầu. Vừa nói chàng vừa dốc túi đếm đủ một trăm lạng bạc trao cho người kia. Từ hôm ấy, tên Hò Kính Thán được truyền ngay khắp mọi nơi, tất cả dân trong thành phố ai cũng muốn mời chàng về nhà xem mặt. Lần lượt hết người nọ đến người kia mời chàng về nhà ăn cơm. Đêm đêm chàng lần ra ngủ tại một cái miếu vắng ở cuối phố. Chàng định bụng tìm chỗ làm thuê ít lâu để dành dụm tiền mua hàng về cho bố mẹ nuôi. Nhưng chẳng một ai dám nghĩ đến mượn chàng - nhà đại hảo tâm cúng cầu - làm thuê. Người ta cho là chàng đùa cho vui câu chuyện. Loanh quanh trong hai tháng, chàng vẫn không tìm được một việc làm. Nghĩ tới món hàng cần phải mua, chàng càng nóng lòng sốt ruột. Một đêm nọ chàng bỗng mơ thấy một ông cụ đầu tóc bạc phơ, tay chống chiếc gậy, ở sau miếu đi ra đến bên chàng rỉ tai nói : - Hò Kính Thán! Anh là người có lòng tốt, thần sẽ giúp đỡ anh. Sáng mai anh sẽ lật phiến đá mà anh đang nằm lên sẽ thấy kho vàng, đó là kho vàng của thần dành cho anh, muốn lấy bao nhiêu cũng được. Nói xong cụ già biến mất, Hò Kính Thán tỉnh dậy, đi khắp mọi nơi trong miếu tìm ông cụ, nhưng không thấy gì cả. Chàng lại ngả lưng nằm trên phiến đá, gác tay lên trán nghĩ ngợi. Nhẩm lại từng lời thần báo, chàng đứng dậy co tay lay thử phiến đá nhưng hòn đá nặng không chút động đậy. Chàng lại ra sức lay lần thứ hai, phiến đḠvẫn trơ trơ không hề nhúc nhích. Chàng thất vọng lẩm bẩm: - Thần à! Thần nói thật hay nói dối! Nếu quả thật thần có lòng thương kẻ đói khó thì hãy ban cho tôi có sức mạnh lật được phiến đá kia. Vừa nói dứt lời thì một luồng gió mát lướt qua đưa theo một làn hương thơm dịu, Hò Kính Thán cảm thấy khoan khoái trong người hơn. Chàng lại cúi xuống lật phiến đá. Lần này phiến đá lật tung lên, cả cái miếu nhỏ bé tự nhiên sáng choang như có ánh đèn. Biết đó là kho vàng của thần, chàng cúi xuống nhặt lấy hai thỏi, chàng nghĩ bụng: “Với số vàng này ta có thể sống được nhiều năm và mở lên một cửa hiệu rồi!”. Chàng đem thỏi vàng ra buôn bán, từ đó tiền của ngày cảng đổ về như nước. Chàng cưới vợ rồi xây nhà cửa, cửa hiệu của chàng ngày càng phát đạt, chàng được dân phố hết sức kính nể. Nhưng chàng vẫn chưa có dịp trở về với bố mẹ nuôi. Lại nói bác thợ rèn họ Hò ở nhà tính từ ngày cho con nuôi đem bạc ra đi đến nay đã bốn tháng tròn bác mong ngày mong đêm. Nhưng càng mong thì tin lại càng vắng. Vợ bác càng sốt ruột hơn. Một hôm bà giục chồng đi tìm, bác thợ rèn đành phải tạm nghỉ việc ra đi. Sắp đến thành phố, bác giật nẩy mình khi nhìn lên cái bảng ghi ơn những nhà hảo tâm quyên bạc làm cầu trong đó có tên Hò Kính Thán đứng ở dòng thứ nhất : “Hò Kính Thán góp 100 lạng bạc tinh ngân”. Đến đây bác mới biết bấy lâu con mình không mua được hàng về là vì nó đã dốc hết tất cả vốn liếng vào chiếc cầu này. Khi trả tiền qua cầu, bác hỏi chuyện người gác cầu về Hò Kính Thán. Người ấy nói : - Hò Kính Thán là một nhà hảo tâm lớn, được ghi tên vào bia đá. Hiện nay ông ta đang cùng vợ có cửa hiệu buôn ở thành phố. Bác thợ rèn lại càng ngạc nhiên nghĩ rằng nó đã bỏ hết vốn cho cái cầu rồi thì làm sao lại có vốn buôn bán và dựng nhà nữa. - Có phải Hò Kính Thán người đen đen không? - Không phải! Ông ấy người trắng trẻo, lúc nào cũng vui tính. Khi bác thợ rèn đến cửa hiệu của Hò Kính Thán thấy người con nuôi bây giờ ra dáng một ông chủ hiệu béo tốt chứ không phải anh chàng đen thủi đen thui ngày nào. Thấy bác thợ rèn, Hò Kính Thán mừng rỡ: - Bố đến đây từ lúc nào? Vì bận cửa hiệu con chưa về được, xin bố hãy tha lỗi cho con! Rồi Hò Kính Thán kể đầu đuôi mọi việc từ ngày ra đi cho đến hôm được thần báo mộng cho vàng rồi gây dựng lên cơ nghiệp này, chàng lại nói thêm : - Con định thu xếp ổn thỏa việc nhà rồi sẽ về đón bố mẹ tới đây, nhưng công việc chưa xong. Nay bố đã tới chúng con xin mời bố ở lại, ít lâu nữa con sẽ về đón mẹ... Từ đó, bác thợ rèn ở lại giúp việc buôn bán cho con nuôi. Một hôm Hò Kính Thán định đi đón mẹ, bác thợ rèn gạt đi: - Mẹ của con không ưa thị thành. Dù có thiếu ăn, mẹ con cũng không muốn rời nơi chợ nhỏ ấy. Bố tuổi đã già cũng chiều lòng mẹ con, vì vậy sớm muộn bố cũng sẽ trở về. Con đừng đón mẹ đến đây nữa... Chiều ý bố mẹ nuôi, Hò Kính Thán bỏ ý nghĩ đón mẹ tới thành phố, chàng định sẽ xây dựng cho bố mẹ nuôi một ngôi nhà ở chốn quê hương và có một lò rèn to hơn trước. Nhưng chàng không muốn nói trước cho bố nuôi biết. Một hôm, Hò Kính Thán nói với bố là mình sắp đi xa mua hàng, nhờ bố ở nhà trông nom giúp cửa hiệu. Rồi chàng dặn dò vợ phải chăm lo chu đáo cho bố già... Hôm sau chàng trở về nhà bố mẹ nuôi, tìm thầy thuê thợ dựng một ngôi nhà ở bên cạnh ngôi nhà nhỏ của bác thợ rèn, nhưng chàng luôn luôn giấu kín không cho mọi người biết mình là ai. Khi nhà làm xong, Hò Kính Thán vẫn giấu mặt, cho người đến thương lượng với mẹ nuôi đề nghị đổi cái nhà gianh của bà lấy một gian trong cái nhà mới xây xong. Được mẹ nuôi đồng ý, chàng cho người dỡ ngôi nhà tranh ấy đồng thời mời bà dọn đến chỗ ở mới. Xong đâu đấy chàng trở lại nhà, về đến nhà vẫn không cho bố nuôi biết một tý gì. Được ít lâu bác thợ rèn ngỏ ý muốn về nhà. Hò Kính Thán cũng vui lòng để bố về. Hôm bố lên đường, chàng chỉ đưa cho bố ba lạng bạc làm ông tỏ ra không hài lòng khi nghĩ đến món bạc trăm lạng ngày nọ. Nhưng khi về tới quê nhà, bác tìm mãi vẫn không thấy cái nhà cũ của mình. Bác nhìn lên ngôi nhà mới xây mà không thấy có người ở, chợt bác nhận ra người vợ ở một phòng trong đó. Lấy làm lạ, bác hỏi thì vợ đáp: - Đây là nhà của ta, nhưng chỉ một gian này thôi. Còn tất cả là một vị phú gia nào đó xây lên mà chưa thấy đến ở. Bác thợ rèn chưa hiểu ra thế nào. Bỗng có tiếng ồn ào ở trước lầu, bác cùng vợ ngó ra thì đã thấy Hò Kính Thán cùng một đoàn trên dưới hai chục người gánh gánh gồng gồng, chàng chào bố mẹ nuôi rồi nói : - Con đưa về một nghìn cân sắt hạng tốt nhất để bố có sắt làm. Và đem theo một nghìn lạng bạc để bố mẹ làm vốn. Nhân tiện con đưa bố mẹ lên nhận nhà ở. Đây, tòa nhà này hoàn toàn là của bố mẹ! Truyện cổ Tày – Nùng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ho-kinh-than" }
Lạc Long Quân diệt Ngư Tinh
Xưa kia ở vùng biển Nam Hải (Biển Đông hiện nay, Nam Hải là cách phương Bắc gọi vùng biển chủ quyền của Đại Việt ngày xưa) có loài thuồng luồng ba ba luôn ngày ngày rình rập, làm lật thuyền hoặc bắt ngư dân ăn thịt. Thuồng luồng tương truyền có họ hàng với thần Long, nhưng giống ấy mu muội lại thèm thịt sống nên tuy luyện bấy lâu mà chẳng thể đắc đạo. Tuy vậy, những con thuồng luồng hướng thiện một lòng tu luyện cũng có thể hoá thành Giao Long, gần gũi với Long tộc hơn, có thể hô mưa gọi gió lại điều khiển được lũ lụt, cuồng phong, loài Giao Long còn có lốt người, lâu lâu có thể lên mặt đất mà sống cùng người bình thường. Tuy vậy, bản chất của chúng hoá từ loài thuồng luồng nên ít lâu vẫn có thể bắt người ăn thịt, chỉ có 1 vài trường hợp được tôn làm thần song thần biển, như Giao Long ở câu chuyện hồ Ba Bể hoặc trong vụ án Lệ Chi Viên, có 1 con rắn nhỏ được thả xuống dòng Tô Lịch, sau hoá thành Giao Long, thành tôi tớ cho Tô Lịch Giang Thần. Còn loài ba ba trong câu chuyện xưa thực chất còn 1 tên khác là con Giải, giống rùa, nhưng có vây chèo, mũi nhọn, hay thèm thịt sống, trước đây, các vùng cửa sông nước lợ, con Giải vẫn hay vào sâu mà bắt súc vật ăn thịt, nếu ai xảy chân, tất cũng bị Giải nuốt (có 1 chuyện về tích này ở mạn Kinh Bắc vào thời Hồng Đức). Dân chúng quanh vùng từ ngày được Lạc Long Quân truyền cho tục xăm mình và vẽ mắt lên thuyền thì tai nạn do thuồng luồng và ba ba đỡ hẳn, tuy nhiên ở Nam Hải còn có Ngư Tinh, tương truyền là linh khí của thần Trụ Trời, do vô tinh hấp thụ, lại bản chất là loài thú vật vô tri, cứ thế mà ăn thịt hại người. Nó có một tên khác là Ngư Xà, đầu cá, mình rắn, lại dài hơn năm mươi trượng, quanh mình chân mọc tua tủa như chân rết, bơi nhanh mà chẳng ai thấy. Nó lại có phép thuật, hô mưa gọi gió, biến ảo linh dị. khi bơi thì ầm ầm như sấm dội, trời trong xanh mà hoá mưa mù, gặp ai thì ăn thịt người đó, dân quanh vùng cả sợ mà chẳng biết có cách nào trốn thoát. Ở mũi đất nọ, có bãi đá lởm chởm, Ngư Tinh lại làm tổ ở đó, vì là cửa biển, dân chúng đi đánh cá bắt buộc phải đi qua, bãi đá lại lởm chởm, chắn lối, dưới là hang Ngư Tinh, cứ hễ thuyền đi thì mất 1 thuyền, thuyền về lại mất 1 thuyền nữa, mỗi ngày dân chúng lại lầm than. Một đêm nọ có vị tiên trên trời, thấy dân chúng khổ sở, mạn phép phạm lệnh trời hạn phàm xuống mà xây hầm qua núi đá cho dân đi tránh hang Ngư Tinh. Tiên không được can thiệp vào việc phàm, việc ấy tất có anh hùng hào kiệt làm, thế nước hiểm nguy, các tiên sẽ thác sinh làm hào kiệt; kỳ công, suy cho cùng là do bàn tay và khối óc làm nên. Các tiên xây được gần nửa thì Ngư Tinh thức giấc, nó hoá làm con gà trống trắng mà gáy, các tiên lại tưởng mặt trời đã lên mà vội vàng bay về trời nếu không phải tội, thế là hầm chưa xong mà trời cũng chưa sáng. Dân trong vùng lầm than, cho đến một ngày nọ khi Lạc Long Quân tuần thú qua vùng này thấy dân chúng khó khan không xiết, trai tráng trong làng chẳng còn ai, Long Quân quyết định tiễu trừ con yêu tinh này. Hôm ấy, Long Quân lệnh cho các Dạ Xoa truyền cho hải thần ở cửa biến không được nổi sóng, nếu trái lệnh, các Dạ Xoa cứ thế mà đánh. Ngài lại hoá phép ra một thuyền chài nhỏ, đặng ngồi lên mà chèo ra cửa biển. Sóng yên biển lặng, thấy biển lặng, trên lại có người chèo thuyển, Ngư Tinh liền nổi lên mà phá, Long Quân hoá phép ra hình nhân, đoạn ném về phía nó, Ngư Tinh thấy động liền há miệng ra toan nuốt. Bằng phép thuật của mình, Long Quân làm phép, hình nhân hoá ra cục sắt, nóng đỏ như trong lò nung, Ngư Tinh nuốt phải, bỏng hầu nát họng, đau đớn mà quẫy đạp nhưng sóng tuyệt nhiên không nổi vì đã có Dạ Xoa của Long Quân không cho nổi sóng nổi gió. Nó bỏ chạy, Long Quân liền phóng quyết cắt đôi người nó ra. Ngài lấy da nó, bộ da vốn thấm tinh khí đất trời, phủ lên hòn đảo ngoài khơi, ngăn các loài thuồng luồng thuỷ quái đến trú ngụ, ấy là đảo Bạch Long Vỹ (thuộc Hải Phòng) bây giờ. Đầu nó trôi ra ngoài biển, gây sóng gió, bão biển, Ngài lấy núi, ném ra chặn biển, chém đôi đầu nó, một thành hòn Cẩu Đầu Sơn, một thành hòn Mạn Cầu Thuỷ, mãi mãi không bao giờ trôi lênh đênh, gây bão biển tàn phá thuyền chài nữa.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/lac-long-quan-diet-ngu-tinh" }
Vị sứ thần thông minh
Được tin tiến sĩ Nguyễn Duy Thì sẽ dẫn đầu đoàn sứ thần Đại Việt sang nước Minh, vua quan nhà Minh bàn kế thử tài viên chánh sứ 35 tuổi, nổi tiếng tài cao. Tể tướng Minh triều bàn với vua Minh : Muôn tâu Bệ hạ! Thần đã nghĩ được một kế mua vui. Thần sẽ cho đào một cái hố tròn thật sâu, trên bịt da thật căng để làm thành một cái trống lớn. Chờ khi sứ thần đến, sẽ sai người gõ thật mạnh, tiếng trống sẽ như tiếng động đất, chắc hẳn sứ thần và đám tuỳ tùng phải ngơ ngác, khiếp đảm, ngựa nghẽo sẽ kinh hoảng chạy tán loạn. Vua Minh cả cười: – Trò hay đấy. Nhưng trò vui phải có người xem. Ta sẽ cho quần thần mũ áo chỉnh tề ra đón như để tỏ lòng mến khách. Lại sai tất cả cung phi, thị tì ra xem để mua một trận cười. Trong lúc vua quan nhà Minh đang bàn tính, Nguyễn Duy Thì và đoàn sứ thần Đại Việt chừng năm mươi người ngày đi đêm nghỉ, dầm mưa dãi gió, mệt mỏi rã rời. Con ngựa của Nguyễn Duy Thì đã kiệt sức, bước đi khấp khểnh, nhiều lúc ì ra không chịu tiến. Bởi vậy, chiều ấy, khi đoàn sứ thần đến kinh đô nhà Minh, ai nấy đều rất vui mừng. Nguyễn Duy Thì xiết bao cảm động khi thấy vua quan nhà Minh cờ phướn rợp trời, ra nghênh đón. Đoàn sứ bộ vừa đi tới trước cổng thành thì tiếng trống đất kì quái vang dội dưới chân. Ai nấy kinh hoàng ngơ ngác. Con ngựa của Nguyễn Duy Thì vì quá sợ và mệt mỏi sau chặng đường dài, ngã qụy. Cả triều đình nhà Minh, từ vua quan đến cung tần mĩ nữ cười rộ. Nguyễn Duy Thì định thần rất nhanh, nói lớn: – Cớ sao các vị lại cười? Thấy tiếng động lạ, tôi phải cho ngựa quỳ xuống để nghe xem đó là tiếng động đất hay là tiếng trống của ma quỷ chứ. Đoàn sứ bộ Đại Việt sau câu nói của Nguyễn Duy Thì lập tức lấy lại vẻ tự nhiên, nói cười vui vẻ như không có việc gì xảy ra. Vua Minh thất vọng nói với quần thần: Sứ thần An Nam quả là nhanh trí. Mấy ngày sau, vua Minh thiết triều để sứ thần Đại Việt dâng cống vật. Tuy đã biết tài Duy Thì nhưng vua Minh vẫn chưa chịu buông tha ông. Hôm ấy, vua nghĩ được một câu đố hiểm hóc, liền hỏi Duy Thì: – Ba người cùng đi một chuyến đò qua sông: Một người là vua, một người là thầy học, một người là cha. Đến giữa dòng thì gặp sóng lớn, con đò chẳng may bị đắm. Sứ thần ở trên bờ nhảy xuống cứu. Nhưng một mình không thể cứu được cả ba. Vậy sứ thần sẽ cứu ai ? Nếu Duy Thì nể vua mà trả lời cứu vua thì sẽ bị buộc tội bất nghĩa, bất hiếu. Nếu trả lời là cứu cha sẽ bị khép tội bất trung, bất nghĩa. Còn nếu trả lời là cứu thầy học thì sẽ bị khép vào tội bất trung, bất hiếu. Nếu im lặng không đáp thì càng có cớ để buộc vào cả ba tội trên. Vua Minh chắc mẩm phen này thắng được sứ thần. Nhưng Duy Thì không hề lúng túng. Ông vòng tay, thản nhiên đáp : – Tâu Bệ hạ! Nếu chẳng may việc xảy ra như thế, thì thần sẽ tức khắc nhảy ngay xuống sống rồi tuỳ theo gặp người nào trước thì cứu người đó. Thần sẽ cố gắng lần lượt cứu được cả ba mới toại nguyện. Vua Minh và cả triều đình thán phục, không ngờ tới câu trả lời hợp tình hợp lí mà chính họ cũng chưa hề nghĩ tới. Lần khác, vua mời ông vào điện, hỏi: – Trong các thức ăn, cái gì ngon nhất ? Trong muôn vật, cái gì quý nhất ? Nguyễn Duy Thì trả lời ngay : – Thức ngon nhất là muối trắng. Muốn món ăn đậm đà, ngon miệng, không có muối không thành. Vật quý nhất là sĩ phu. Hiền sĩ giúp đời có thể biến loạn thành trị, làm cho đất nước được phú cường. Nghe Nguyễn Duy Thì đáp, vua Minh vô cùng sửng sốt. Từ chỗ tìm mọi kế để bắt tội viên sứ thần đến chỗ thực lòng quý trọng nhân cách, tài năng của ông, vua vui vẻ nói: Khanh nói rất hợp ý ta. Khanh quả là người hiếm có đời nay. Nhờ đối đáp trôi chảy, ứng xử khoan hoà mà vẫn bảo vệ được quốc thể, nên lúc về nước, Nguyễn Duy Thì được triều đình nhà Minh đưa tiễn chu đáo, lễ nghi trọng vọng.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vi-su-than-thong-minh" }
Sự tích quả Mơ
Ngày xưa , xưa lắm, có một người trẻ tuổi rất có tài làm thơ. Bố của ông trước kia lại là một thày thuốc giỏi. Vì vậy, ông cũng học được cả nghề bốc thuốc chữa bệnh. ông yêu một cô gái ở thôn bên cạnh. Cô gái chuyên trồng dâu nuôi tằm. Hai người yêu nhau nhưng bố mẹ cô gái nhất định không chịu gả con gái mình cho người trai trẻ kia. Có chuyện như vậy vì hai gia đình trước đó vốn có sự xích mích sâu sắc. Hai bên giận nhau, thề đến chết không nhìn mặt nhau. Bố mẹ người trai trẻ đã chết từ lâu, vậy mà nỗi giận ấy, bố mẹ người con gái vẫn còn giữ nguyên trong bụng. Người con gái buồn bã âu sầu. ông con trai chữa cho nhiều người khỏi bệnh, nhưng căn bệnh của người ông yêu, ông không tài nào chữa nổi. Chính ông, ông cũng rất đau khổ và buồn rầu. ông chỉ biết gửi tâm sự vào thơ. Thơ ông chép dày từng tập, ông cũng chẳng dám gửi cho cô gái xem vì sợ bố mẹ cô biết được sẽ đánh mắng cô, và thêm ghét bỏ mình. Nỗi đau khổ của hai người cùng với năm tháng cứ kéo dài ra. Hết Xuân lại Hè. Hết Thu sang Đông. Mỗi mùa đều có những điều gợi cho hai người nhớ thương nhau khôn xiết. Một đêm người con trai bỗng nằm mơ thấy một bà cụ, mặc áo xanh màu rất sáng, tay cầm một quả con màu vàng, lông tơ óng mịn, đến bên cạnh và bảo: – Ta hiểu lòng hai con lắm và rất thương hai con. Vì vậy ta đến mách cho con điều này. Ba ngày nữa là bắt đầu sang Xuân. Con hãy đi về phía mặt trời lặn: hỏi thăm con suối Trăm Năm ở chỗ nào. Giữa suối Trăm Năm có một hòn núi đá nhỏ. Trên đó có một cái cây bé, thấp, có thể nhiều người đã trông thấy nó nhưng không ôi chú ý vì tưởng nó không có hoa, có quả. Nhưng con ạ, nếu nhìn kỹ, con sẽ thấy nó có một quả giống như cái quả ta đang cầm đây, nấp rất kín trong lá, trong cành. Người con trai mừng quá, vội cướp lời: – Thưa cụ, thế là con hái cái quả ấy về... Bà cụ lắc đầu thương hại: – Không đâu! ở đời không có chuyện gì dễ cả! Con hãy nhớ kỹ hình dáng cái cây, hình dáng cái quả và con hãy lội lên bờ, đi mãi về phía Bắc. Nhưng con có đủ kiên nhẫn để làm việc này không đã. – Thưa cụ, điều đó, cụ có thể tin ở lòng con. – Nếu vậy thì được. Con hãy đi, đi mãi. Ta sẽ cho các giống chim quý của ta bay đi dẫn đường. Con cứ đi cho đến ngày nào, con lại gặp một cái cây giống y như vậy, có một cái quả cũng giống y như vậy... – Thưa cụ, cũng ở giữa suối hay ở trên bờ? – Ta không đoán trước được. Cũng có thể ở giữa suối, mà cũng có thể ở trên bờ. Miễn là nó giống y như cái cây ở Trăm Năm là được... – Thưa cụ, con đã hiểu rồi! – Lúc bấy giờ con hãy hái cái quả ấy mang về nhà, ngâm vào một cốc rượu từ đầu đêm cho đến sáng. Con hãy đem sang nhà người con yêu, bảo cô ấy đem mời bố mẹ mình uống thử. Thứ rượu ấy sẽ có đủ sức làm tan đi lòng hờn giận lâu ngày. ông bà cụ sẽ đồng ý cho hai con kết nghĩa trăm năm. – Con xin đa tạ cụ và nhớ ơn cụ đến trọn đời. – Ta chỉ muốn cho hai con được sung sướng. Nhưng được hay không còn do chính ở hai con... Thôi, ta đi đây! Bà cụ vụt biến mất. Người trai trẻ tỉnh giấc... Trăng cuối tháng hiện ở phía xa. Trăng mờ xanh như vạt áo bà cụ vừa gặp trong cơn mơ. ông lẩm bẩm: – Suối Trăm Năm ở phía mặt trời lặn, tức là phía ấy! Ba ngày sau, ông đến chào người con gái ông yêu và lên đường đi mãi về phía có núi rừng. Hỏi người trong vùng thì quả nhiên ở phía trên xa có con suối Trăm Năm, nước trong xanh, bốn mùa không mùa nào cạn nước. ông đến nơi, thấy một hòn núi đá nhỏ nổi lên ở giữa suối. ông lội ra, trèo lên núi, tìm và thấy cái cây bé, thấp, có một quả duy nhất giấu kín trong lá, trong cành. ông mừng quá, reo lên: – Đúng là cái quả ta đã thấy trong mơ! Theo lời bà cụ dặn: ông lại lội lên bờ, nhằm thẳng phía Bắc mà cất bước. ông đi, đi mãi! Dọc đường đi ông lấy nghề làm thuốc cứu giúp bà con đau ốm để kiếm lấy bữa ăn qua ngày. ông chữa khỏi được nhiều người nên ôi cũng quý mến. ôi cũng muốn mời ông lại để tạ ơn. Nhưng ông còn phải đi, tìm gặp cho được cái cây có một quả duy nhất, đủ sức làm tiêu tan những nỗi hờn giận lâu ngày. ông đi hết ngày này sang ngày nọ, hết tháng này sang tháng kia. Mùa Xuân, chim én chỉ đường Mùa Hạ tiếng chim cuốc mách lối. Mùa Thu đã có chim gáy Mùa Đông đã có chim két. ông đi, đi mãi, đi từ cái ấm áp của mùa Xuân đến cái oi bức của mùa Hè, từ cái mát mẻ của mùa Thu đến cái gió rét của mùa Đông. Thấm thoắt thế mà đã ba năm... Niềm vui cứu giúp được mọi người khỏi bệnh làm ông đỡ thấy tháng dài, ngày lâu. Há vọng được sống với người ông yêu làm ông đủ sức kiên nhẫn để đi tiếp. ông càng làm được nhiều thơ về những nơi đã qua, về những bà con ông đã gặp, về nỗi nhớ thương người ông yêu đang chờ đợi ở quê nhà... Mùa Xuân năm ấy lại trở về. Một buổi sáng, con chim én đưa đường bỗng bay vút lên cao ba vòng và hót: Mừng cho ông! Mừng cho ông Cây một quả đang chờ trước mặt Con đường ông đi đã ba năm Mọi sự buồn phiền nay sẽ mất... Người trai trẻ bỗng dừng lại và dụi mắt. ồ! Sao như ta đã từng đến nơi này! Rất nhiều cái như vừa lạ vừa quen. ông so sánh những gì ông đang thấy với những gì ông đã thấy. Thôi, thế là ba năm ông đi, bây giờ ông lại vòng trở về đúng chỗ ngày trước, trở về với con suối Trăm Năm. Nhưng rõ ràng có đôi nét đổi thay. Hòn núi đá như đã xích lại gần bờ bên này, vì ba năm qua, đất đã không ngừng bồi đắp. Người trai trẻ đứng lặng và bỗng hiểu ra. Làm gì có hai cái cây giống y như nhau! Bà cụ chỉ muốn thử xem ta có đủ lòng kiên nhẫn. Cây một quả, ta một lòng. Ta mau hái quả quý mang về cho người yêu ta được sớm mừng vui. ông đến bên cây và nâng niu quả quý mãi trong tay. ông hái khẽ, như sợ cây đau đớn. ông về nhà, gặp ngay người ông yêu đang giở những cái kén vàng ra nong. Người con gái mừng quá, khóc nấc lên và chạy đến: – Anh ơi! Sao ông đi lâu quá vậy! Ba năm rồi ông có biết không? – Có! ông tính từng tháng, từng ngày... – Anh ơi, ba năm, bao nhiêu chuyện ở nhà... – Anh biết lắm. Nhưng ông tin ở em... – Anh đi mà không thấy dài lâu à? – Miễn còn một chút há vọng được sống với em, thì ông còn đủ sức để đi đến cùng trời, cuối đất. – Thế ông đã tìm được quả quý mang về đây chưa? – Đây rồi em ! ông đưa cho người yêu xem quả quý. Hai người nhìn nhau, tưởng như đã được sống bên nhau. Người con gái bỗng giật mình quay nhìn vào trong nhà: – Thôi, ông hãy về đi và ngâm ngay quả quý kia vào rượu nhé! Người con trai về nhà, ngâm quả quý vào rượu từ đầu đêm cho đến sáng. ông lén mang sang cho người con gái. Lúc đến không ôi biết, nhưng lúc ông ra về thì bố mẹ người con gái bắt gặp. ông lúng túng và chỉ có cách chào hai ông bà. Bố mẹ người con gái gật đầu. Lòng hai ông bà, tuy chưa uống rượu của người trai trẻ mà cũng đã có sự đổi thay. Ba năm rồi, bao nhiêu người đến dạm hỏi cô gái. Ba năm, hai ông bà đã dỗ dành, dọa nạt. Cô gái sống chết vẫn chỉ khăng khăng: – Thầy mẹ thương con! Con chỉ chờ đợi một người, con không thể thương yêu ôi khác. Người mà cô gái chờ đợi đây rồi. Bố mẹ cô gái liền hỏi: – Thế ba năm nay, ông đã đi đâu? Người con trai, tính vốn thật thà, liền đáp: – Thưa hai bác... con đi tìm một thứ quả quý. – Để làm gì? – Để nhờ nó mà hai bác quên hết những điều xưa cũ và thương lấy chúng con. – Anh đi mà không thấy dài lâu ư? – Thưa hai bác. Miễn còn một chút há vọng được hai bác quên hết những điều xưa cũ, và thương lấy chúng con, thì con còn đủ sức để đi đến cùng trời, cuối đất. Bố mẹ cô gái nghe cảm động, không cầm lòng được nữa. Mấy hôm sau, hai ông bà ngỏ ý cho phép hai người lấy nhau. Cốc rượu được ngâm quả quý ấy, hai ông bà đã uống trong ngày cô gái đi lấy chồng. Một năm sau, nhớ ơn bà cụ đã đến trong giấc mơ của chồng mình, người vợ trẻ nhắc chồng đi lên suối Trăm Năm thăm cây có quả quý. Người trai trẻ đến đó và lại thấy cây kia chỉ có một quả giấu kín giữa lá và cành. ông liền hái và đem trồng thử ở góc vườn. Hai vợ chồng ngẫm thấy ở trên đời này còn biết bao nhiêu đôi lứa phải chịu cảnh dở dang nên ước sao cây ra trăm quả, nghìn quả, để mọi người được hưởng hạnh phúc. Về sau cây mọc lên và ra trăm quả, nghìn quả thật. Cây ấy ngày nay ta gọi là cây Mơ . Vì người trai trẻ ngày xưa, lần đầu đã gặp cây ấy ở trong mơ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-qua-mo" }
Xin chôn ở núi vàng
Xưa có hai vợ chồng một anh nông dân nghèo phát được miếng rẫy  ở bìa rừng để trỉa ngô. Khi ngô đã có bắp non thì ngày nào khỉ cũng kéo nhau đến ăn. Vợ chồng anh phải canh giữ rất vất vả. Một hôm, vợ anh bàn: – Cứ đà này, chỉ vài hôm nữa, cả rẫy ngô sẽ không còn bắp nào. Bầy khi đông quá, canh giữ mãi không được đâu. Chi bằng chúng ta bẻ nấu ăn non cho đỡ phí. Người chồng nghe vợ nói có lí liên bằng lòng. Rồi cả hai lên rẫy bẻ bắp, phần thì luộc, phần thì nướng ăn. Ăn no rồi lăn ra ngủ. Tối đến, bầy khỉ kéo xuống, thấy vợ chồng anh nông dân ngủ say không cựa quậy tưởng rằng họ đã chết bèn hò nhau khiêng đi chôn. Sáng ra, tỉnh giấc thấy mình nằm dưới chân núi, vợ chồng anh nông dân rất ngạc nhiên. Họ đang bàng hoàng chưa nhận ra lối trở về rẫy thì bỗng xung quanh có nhiều hòn đá óng ánh màu vàng chói. Họ nhặt lên xem thì ra đó chính là vàng khối. Rất mừng rỡ, họ lượm mỗi người một túi rồi vội vã đem về nhà. Từ đó, họ tậu được ruộng nương, trâu bò và trở nên giàu có. Láng giêng có một tên phú hộ thấy vợ chồng anh nông dân bỗng chốc trở nên sung sướng, lấy làm thèm khát bèn lân la hỏi chuyện. Vốn tính thật thà, vợ chồng anh nông dân kể lại đầu đuôi, không giấu giếm điều gì. Nghe xong, tên phú hộ hí hửng ra về. Sau khi nhỏ to bàn bạc với vợ, hắn đến hỏi mua đám rẫy và sai người nhà trỉa ngô ngay. Chẳng mấy chốc ngô đã trổ cờ, ra bắp. Hai vợ chồng hắn cũng lên rẫy, cũng bẻ bắp nướng và luộc ăn rồi vờ lăn ra ngủ. Lát sau, bầy khi đến rất đông, chúng thấy hai người nằm im, tưởng họ đã chết lại xúm nhau khiêng đi chôn. Chúng chuyển tay vợ chồng tên phú hộ từ cành này qua cành khác, qua nhiều mỏm núi cao, suối sâu. Đang lưng chừng suối, chúng dừng lại hỏi nhau nên chôn chỗ nào. Khỉ đầu đàn bảo: – Nên chôn ở núi bạc, vì đôi vợ chồng trước đã chôn ở núi vàng . Vợ tên phú hộ nghe vậy, không kìm được máu tham bật kêu lên : – Chôn núi vàng thôi, đừng chôn núi bạc! Bầy khi nghe tiếng người, hốt hoắng buông tay, vợ chồng tên phú hộ rơi tõm xuống vực. Bầy khỉ hè nhau chạy trốn.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/xin-chon-o-nui-vang" }
Sự tích hoa Vạn Thọ
Ngày xưa có một em bé nghèo, mẹ mất sớm nên chỉ được sống với cha. Cha là chỗ để em nương tựa, nhưng cũng là người em phải chăm sóc, vì từ ngày mẹ không còn, cha em thường bị ốm đau luôn... Lúc mẹ còn sống, em cũng được đi học dăm ba chữ. Sau khi mẹ mất, em đành học nghề để kiếm tiền nuôi cha. Em rất khéo tay nên đến học chạm trổ với một ông bác họ rất giỏi về nghề này. Năm đó cha em ốm khá nặng. ông bác họ đã hết sức giúp đỡ nhưng sau đó đành chịu vì ông cũng nghèo. ông mách cho em bé biết là ở vùng dưới có một tên nhà giàu đang cất nhà mới, cần thợ chạm trổ cột kèo. Em liền nhờ ông bác họ chăm sóc cha hộ rồi xách đồ nghề đi ngay. Em mong sẽ kiếm được một ít tiền về thuốc thang cho cha. Gặp em, tên nhà giàu cho biết là hắn đã thuê đủ thợ rồi. Nhưng hắn lại hỏi em: – Bây giờ tao không cần thợ chạm trổ mà cần một người giúp tao chuyện khác. – Thưa ông chuyện gì? – Mày biết ôi có tài, cây chết rồi, vật chết rồi, người chết rồi, vẫn làm sống lại được thì mách cho tao, tao sẽ thưởng tiền và cho một ít thóc gạo. Tên nhà giàu này tiền của thì nhiều, nhưng lại không có một tí tẹo thông minh nào. Đã thế hắn lại thích tỏ ra ta cũng là người có chút ít chữ nghĩa và tài trí. Vì vậy, hắn thích chơi với những người có tài để học điều này điều nọ rồi đi khoe với bà con họ hàng hoặc với người này người kia. Nghe hắn bảo cần có một người có tài, cây chết rồi, vật chết rồi, người chết rồi, vẫn làm sống lại được, em bé liền nhìn ra sân, nhìn lên bàn thờ nhà hắn ta, ngẫm nghĩ một giây lâu rồi nói: – Thưa ông, những việc ấy, ông có thể giao cho con... – Con ông nào? Con nhà ôi? – Con chứ còn con nhà ôi nữa? – Mày ấy à? – Dạ! – Mày có thể cứu cây, cứu vật, cứu người chết rồi sống lại được à? – Dạ! – Mày tự làm à? – Dạ! – Mày làm không được thì sao? – Thì con xin ở làm người giúp việc không công cho ông trong ba năm. – Được! – Nhưng còn nếu con làm được thì sao? – Tao sẽ thưởng cho mày một chục quan tiền và một chục ông thóc. Em bé liền chỉ ra một dây bầu sắp leo lên đến giàn ở ngoài sân tên nhà giàu và nói: – Xin ông cứ cắt ngọn, nhổ hết rễ cái dây bầu kia, con làm phép, dây bầu sẽ sống lại cho ông xem. Tên nhà giàu đần độn nghe nói liền làm theo ngay. Em bé cầm cái ngọn bầu, chùm rễ bầu ra về, nói chắc: – Sáng mai, mời ông cứ dậy sớm ra mà xem! Sáng hôm sau, tên nhà giàu gắng dậy sớm (vì hắn ta vốn quen thói dậy muộn) ra chỗ cái gốc bầu bị ngắt ngọn, cắt rễ thì đã thấy cây bầu sống lại thật. Khi em bé đến, hắn ta mở mắt ra mà nhìn em rồi khen: – Hi! Hi! Mày giỏi lắm! Dây bầu sống lại thật rồi! Mày làm như thế nào, thử nói tao nghe! – Thưa ông, để con cứu vật, cứu người, nhận thưởng của ông rồi con hãy nói luôn một thể. – Hi! Hi! ừ! Như vậy cũng được! Em bé lại chỉ con gà trống tơ đang đi trên sân rồi nói: – Thưa ông, ông cứ cho người nhà bắt con gà trống tơ kia thịt đi, sau đó ông cứ cho con bộ lông của nó con mang về nhà, ngày mai con sẽ mang nó sống lại nộp cho ông! Tên nhà giàu ngu ngốc liền sai người nhà làm y lời em bé bảo. Em bé nhận bộ lông gà đủ các màu xanh trắng, tía ra về. Hôm sau em trở lại, mang theo một con gà trống tơ, đưa cho tên nhà giàu xem và nói: – Con đã làm phép cho nó sống lại rồi. ông xem có phải đúng là con gà nhà ông đã bị giết thịt hôm qua không? Tên nhà giàu đần độn ngu si càng trố mắt ra mà nhìn em bé, hắn nói: – Hi! Hi! Đúng là nó rồi! Giỏi thật! Mày làm cách nào mà lại cứu sống được nó. Nói ngay cho tao nghe đi. – Con đã nói từ đầu là xong cả ba việc, cứu cây, cứu vật, cứu người, nhận xong tiền thưởng, thóc thưởng con mới nói kia mà! Tên nhà giàu đành phải nhượng bộ lần nữa. Em bé liền nhìn lên bàn thờ tên nhà giàu nói: – Bây giờ ông cho con mượn cái bức vẽ ông cụ nhà, để con đem về một ngày, sáng mai con sẽ mang ông cụ sống lại đến cho ông. Tên nhà giàu ngu ngốc lại làm đúng theo lời em bé. Hắn ta vừa bàng hoàng, vừa kinh ngạc hỏi lại: – Ngày mai, chú sẽ đưa ông cụ tôi sống lại đến đây à? – Dạ! Tên nhà giàu cứ đứng ngẩn người ra mà nhìn em bé mang cái bức vẽ ra về... Hôm sau em bé cầm bức vẽ trở lại, tên nhà giàu hỏi ngay: – ông cụ nhà tôi sống lại chưa? – Dạ rồi! – Sao chưa thấy ông cụ đâu cả! Em bé liền chỉ vào cuộn giấy nói: – Dạ, ở trong này rồi! Nói xong em bé mở cuộn giấy ra. Tên nhà giàu trợn mắt hỏi: – Thế này mà gọi là sống à? – Dạ! – Mày điên à? – Dạ không! Thưa ông vậy ông bảo cụ này chết à? – Không chết thì sống đấy? Em bé điềm tĩnh trả lời: – Dạ, sống thật đấy chứ! Bởi vì người chết thì phải nhắm mắt. Mắt ông cụ vẫn mở to thế này, sao lại bảo là chết! Và người chết thì làm sao cười được. ông cụ cười thế này mà lại bảo là chết rồi sao? Như thế là em bé đã vẽ lại bức tranh, ông cụ trong bức vẽ mới lại hơi mỉm cười. Tên nhà giàu đần độn, ngu ngốc không biết làm sao đành phải chịu thua cuộc em bé. Lão ta còn khen: – Hi! Hi! Mày khôn lắm! ông phải chịu là mày giỏi... Nhưng còn cái con gà trống tơ và dây bầu thì mày đã làm như thế nào? ông cứ mang tiền và thóc thưởng ra đây, con nhận xong, con sẽ nói. Tên nhà giàu liền vào lấy tiền và sai người nhà đong thóc thưởng cho em bé. Nhận thưởng xong, bấy giờ em bé mới nói: – Thưa ông, cái dây bầu kia sống lại là nhờ thế này. Con đã chọn một cái dây bầu giống như cái dây bầu nhà ông, đang đêm mang đến trồng lại, chỉ có thế thôi! Tên nhà giàu nghe nói cứ lặng người đi, vì xấu hổ. Em bé lại nói tiếp: – Còn con gà trống tơ, thưa ông, nó cũng na ná như vậy. Con đã để ý và biết là trong xóm con có một con gà tía, rất giống con gà mà ông đã cho thịt. Gà rất nhiều con trông giống nhau, ông muốn có con nữa, con sẽ có ngay cho ông. Con bỏ tiền ra mua đem nộp cho ông rồi sẽ có tiền thưởng to hơn gấp nhiều lần mang về. Tên nhà giàu bấy giờ mới thấy hết cái đần độn, ngu ngốc của mình. Lão ta ôm đầu than thở: – Chỉ có vậy mà mình chẳng đoán ra! Nhưng dù sao thằng bé này vẫn là đứa giỏi. Hi! Hi! Thưởng cho nó cũng phải lắm. Nghĩ đến chuyện rồi mình sẽ bắt chước em bé và sẽ có khối người phục mình, hắn vui vẻ nhìn em bé nhận tiền, nhận thóc ra về. Có lẽ trong việc này, hắn đã tỏ ra bớt phần ngu ngốc. Thấy con mang mười quan tiền và mười ông thóc về, người cha mừng rỡ lạ lùng. Nghe con kể lại chuyện, ông đang ốm cũng phải cười khẽ mấy tiếng... Người cha vừa khỏi bệnh thì tiền kia thóc kia cũng không còn nữa. Mà ngày giỗ mẹ sắp đến rồi. ông liền nói với con: – Thôi con ạ, cứ nấu bát cơm, kho đĩa cá cúng mẹ là được rồi. Nhưng em bé hiếu thảo nào đâu chịu vậy. Em lại nghĩ đến tên nhà giàu tuy đần độn, ngu ngốc nhưng không đến nỗi keo kiệt kia. Em nghĩ bụng: – Lần trước ông ta đố mình, bây giờ mình có cái gì đố lại nhỉ! Em định vậy nhưng chưa nghĩ ra được cách nào. Trước mắt em phải lo giỗ mẹ cái đã. ừ thì một bát cơm, một đĩa cá, nhưng cũng có tí hương hoa cho mẹ vui lòng. Em sẽ gắng tìm mua một nén hương. Còn hoa? Đang mùa cây khô, lá vàng, cả xóm chẳng thấy cái hoa nào để xin cả. Không có thì phải làm ra vậy! Em bé vốn khéo tay lại vô cùng thông minh ấy liền chọn những lá lúa to đẹp nhất, cắt ra thành những sợi thật nhỏ rồi bó túm lại, bên dưới thắt thật chặt, còn bên trên thì cho xòe ra. Em lấy kéo tỉa thật đẹp, thật tròn. Sau đó em lại đi hái mấy cái lá xanh, buộc thêm vào ở dưới nhìn như cái đài hoa. Em làm một chùm năm cái, cắm vào ống tre, đặt lên bàn thờ cúng mẹ. Người cha thấy thế liền hỏi con: – Con có thứ hoa gì mà lạ vậy? Em bé mỉm cười, ngẫm nghĩ một lát rồi đáp: – Hoa trăm tuổi đó mà cha! Hoa để cúng mẹ rồi mẹ sẽ phù hộ cho cha sống thật lâu với con đó! – Mới nhìn, cha cứ tưởng là hoa thật. Lời nói của người cha bỗng làm cho em bé này Sinh ra một ý mới. Vậy là sau khi cúng mẹ, em liền đem một bông hoa kia đến tên nhà giàu và nói: – Tôi có bông hoa lạ mang đến để biếu ông và cám ơn ông đã thưởng cho tôi tiền, thóc dạo nào. Tên nhà giàu vui vẻ nhận hoa rồi hỏi lại: – Hoa này là hoa thật hay hoa giả? – Muốn thật thì nó thật mà muốn giả thì nó giả. – Vì sao lại thật? Vì sao lại giả? – Thật vì nó có thật mà giả vì nó không phải từ cây mà từ tay người làm ra. Em bé trả lời xong tiếp luôn: – Lần trước ông ra bài cho con làm. Lần này con xin phép được đố ông một câu vì con nghe nói ông giỏi về chuyện giải các câu đố lắm. Tên nhà giàu nghe nói, gan ruột cứ nở nang cả ra. – ừ, đố đi! – Con đố ông hoa này có bao nhiêu cánh. ông mà đoán trúng, con sẽ đến ở giúp việc không công cho ông ba tháng. – Còn nếu không đoán đúng? – Điều đó xin tùy ông! Con chỉ xin nói là hiện nay con đang cần vải để may cho cha con một bộ quần áo mới. Tết sắp đến rồi. – Được, tao mà đoán sai, tao sẽ cho mày mấy thước vải về may áo cho cha mày. – Dạ, vậy thì ông đoán đi! Tên nhà giàu nhìn vào bông hoa một lúc rồi nói: – Tao đếm có được không? – Đếm thì không phải là đoán nữa rồi. Nhưng xin ông cứ đếm. Tên nhà giàu thử đếm mà không tài nào đếm được vì cánh hoa nhiều quá, cứ xúm xít xen lẫn vào. Không làm sao biết rõ cánh hoa nào đã đếm, cánh hoa nào chưa đếm. – Tao mở ra đếm có được không? – Mở ra thì càng không phải là đoán nữa rồi. Nhưng xin ông cứ mở. Tên nhà giàu liền mở bông hoa ra, bắt đầu đếm. ông ta đếm khá vất vả. Vì những cánh hoa bé và nhiều quá. Có lúc vừa đếm xong được một khóm gió bỗng thổi tung làm lẫn những cánh hoa chưa đếm vào. Có lúc chính ông ta quên mất là mình đã đếm đến chục thứ mấy, tám mươi hay chín mươi... Nhưng ông ta vẫn quyết đếm cho kỳ được. ông đếm mãi, gần hết cả buổi sáng mới gọi là xong. ông ta hớn hở trả lời luôn: – Bông hoa này có vừa đúng một nghìn cánh! Em bé liền hỏi lại: – ông bảo là một nghìn cánh? – Hi! Hi! Chứ sao nữa! Mày đã chịu thua tao chưa nào? – Vậy thì ông sai, sai to rồi! – Sao lại sai! Mày đếm đi! – Thưa ông tôi đã đếm rồi! Phải nói là ông đã đếm đúng nhưng mà vẫn sai. – Hi! Hi! Thằng này nói lạ: đúng mà lại sai! Như vậy là thế nào? – Dạ vì ông đã quên rằng: Hoa nào thì cũng có cánh và có nhụy, ông đã đếm cả cánh và nhụy gộp vào với nhau rồi. – Cái nào là cánh, cái nào là nhụy? – Thưa ông, những cái ngắn hơn nhỏ hơn một chút là nhụy. Đây con sẽ chỉ cho ông xem. Em bé liền nhặt ra những sợi rơm nhỏ hơn và ngắn hơn một tí rồi bảo: – ông xem đấy là nhụy đâu phải là cánh! – Nhụy thì nó nằm ở giữa, sao nhụy này lại lẫn lung tung? – Dạ, vì bông hoa này gồm nhiều hoa nhỏ ghép lại, mỗi hoa có bốn cánh và một nhụy ở giữa. – Vậy theo mày có bao nhiêu cánh, bao nhiêu nhụy? – Tám trăm cái cánh, hai trăm cái nhụy! Một lần nữa, tên nhà giàu lại phải chịu thua em bé. – Hi! Hi! Thằng này nói phải! Hoa thì phải có nhụy chứ! Tao quên, tao quên! Được, tao sẽ thưởng cho mày! Nhưng mày phải buộc lại cái bông hoa này để nó cho tao! Tao sẽ đem đi đố người khác xem họ có bị quên như tao không? Tao được cuộc, tao sẽ còn được to gấp mấy mày! Em bé nhận được mấy thước vải về may áo Tết cho cha. Em kể hết đầu đuôi câu chuyện cho cha nghe. Lần này không còn bị ốm như lần trước, người cha đã bật lên cười thành tiếng. Ăn tết xong, người bác họ đi làm ở xa về bảo cho hai cha con biết là vua đang dựng một ngôi đền lớn và cần có nhiều thợ chạm trổ thật khéo tay. ông rủ hai bố con em bé cùng đi với mình, hứa sẽ đưa em vào một nhóm người chuyên chạm trổ ở chân cột đền. Hai bố con cùng về kinh. Sau này, nhờ khéo tay, lại thông minh sáng tạo, em bé trở thành người thợ chạm trổ giỏi nhất nước. Một lần người thợ tài giỏi ấy được gặp cháu thần cây là thần Tiêu Lá. Nghe người thợ tài giỏi nhất nước kể lại câu chuyện ngày nhỏ, thần Tiêu Lá liền hỏi thật kỹ, sau đó thần tạo nên một giống hoa để người đời nhớ mãi tấm lòng của chú bé hiếu thảo rất đỗi thông minh kia. Hoa có hình dáng rất giống cái bông hoa kết bằng rơm của em bé ngày xưa. Hoa cũng có màu vàng như rơm, đẹp tươi hơn rơm, mà cũng nở vào dịp Tết. Hoa nở nhiều bông, lâu tàn, có hương thơm đặc biệt như là hương thơm của lòng hiếu thảo. Lá cũng thơm, đẹp như được một người rất khéo tay cắt tỉa chạm trổ. Hoa ấy ngày nay ta gọi là hoa Vạn Thọ . Cái tên hay và đáng yêu các em nhỉ. Tên có hai chữ nhưng đó là cả một lời chúc cho ông bà, cha mẹ và tất cả mọi người ôi ôi cũng được sống lâu trăm tuổi với những người thân của mình.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-van-tho" }
Truyền thuyết về cái nồi
Trong một quả đồi lớn ở Arnol gần làng Barvas có rất nhiều ma quái. Bọn chúng thường đi bộ đến chơi nhà một gia đình nông dân ở ngay dưới chân núi cách quả đồi không xa. Bọn ma quái và gia đình nông dân này vẫn dùng chung một cái nồi để nấu thức ăn. Cái nồi đó không phải của bọn ma quái, mà là của riêng gia đình người nông dân. Mỗi khi cần chiếc nồi, bọn ma quái đến mượn, thì ông chủ nhà hoặc người nào đó trong gia đình đưa tận tay cho chúng và không bao giờ để bọn chúng tự tiện lấy đi. Cả hai bên đã quy ước với nhau bằng một lời chú. Chủ nhà mỗi khi cho bọn ma quái mượn nồi thì phải đọc lời chú đã quy ước đó, và bọn chúng sẽ phải trả lại chiếc nồi, ngay sau khi dùng xong. Nhưng nếu chủ nhà quên không đọc lời chú, thì bọn ma quái sẽ coi như không đến mượn nồi, và chúng sẽ không những không trả lại nó cho chủ nhà đúng hẹn, mà cũng không trả lại nữa. Lời chú đó như thế này: “Cái nồi này để ninh xương Khi nào xong thì trả lại Đừng lỗi hẹn gây điều lo ngại Cái nồi này dùng mãi với nhau Người nấu trước, kẻ nấu sau Làm sao giữ mỗi tâm giao hai nhà Đường đi nào có cách xa!” Thời gian cứ thế qua đi. Mối quan hệ giữa bọn ma quái ở trong quả đồi và gia đình người nông dân ngày càng trở nên thân thiện. Thế rồi, bỗng nhiên một hôm, ông chủ nhà đi vắng. Ông phải vào thành phố để dự lễ cầu nguyện cho một người bạn vừa mới qua đời. Đúng hôm đó, bọn ma quái đến mượn nồi. Chỉ có vợ ông ta ở nhà. Vì đang bận nướng bánh mì trong lò, kho đưa nồi cho bọn ma quái, bà chủ nhà đã quên không đọc lời chú quy ước. Nhân đây, tôi cũng xin kể thêm với các bạn. Đã từ lâu nay, bọn ma quái có ý định muốn chiếm cái nồi này của người nông dân để làm của riêng, vì thế lần nào chúng cũng để ý, xem chủ nhà có quên đọc lời chú đã quy ước hay không. Bây giờ bọn chúng rất mừng rỡ và đã tận dụng được cơ hội này để ăn cướp cái nồi. Khi dùng xong, chúng sã không thèm mang trả lại cái nồi cho gia đình người nông dân nữa. Khi người nông dân trở về nhà, thì được người vợ nói cho biết là bọn ma quái đã đến mượn nồi. Ông ta cứ nghĩ là bọn ma quái sẽ đem trả lại cái nồi như mọi lần. Vì thế, ông giết một con cừu béo và nói với vợ. – Mẹ nó này, ngày mai bà hãy ninh cái vai con cừu này cho tôi! Bọn chúng cũng sắp phải mang trả lại chúng ta cái nồi rồi đấy! Nhưng cả ngày hôm ấy, họ vẫn không thấy bóng dáng bọn ma quái ở trên đồi xuống mang trả lại cái nồi. – Thật là lạ lùng, – ông chủ nhà nhận xét, – Có bao giờ bọn chúng lỡ hẹn với ta đâu. Lại một ngày nữa qua đi. Bọn ma quái vẫn không mang trả nồi. Đến ngày thứ ba, vợ người nông dân đành phải nói thật với chồng: – Ôi, ông nó ơi! Trong lúc đưa nồi cho bọn chúng, tôi đã quên không đọc lời chú rồi, vì lúc ấy tôi đang túi bụi với lò bánh mì. Bây giờ thì tôi tin là bọn chúng sẽ không mang trả lại cái nồi cho chúng ta đâu. Chúng ta không cần phải ngồi chờ làm gì. Tôi sẽ đến chỗ bọn chúng ở trong quả đồi kia để đòi lại cái nồi! Nói xong, bà tất tả đi ngay lên quả đồi! Khi đến nơi ở của bọn ma quái, vợ người nông dân thấy cửa hang đã mở rộng. Bà nhìn vào trong hang và trông thấy cái nồi của gia đình treo ở cửa ra vào. Vốn dã bực bọn ma quái về chuyện không đem trả lại gia đình bà cái nồi, bây giờ bà lại trông thấy bọn chúng treo nó ngay ở cửa, cho nên bà càng bực tức hơn. Bà bước vào trong hang khi bọn chúng đang ngồi trong đó. Bà không thèo chào hỏi, không nói không rằng, bà giật phắt cái nồi và đi thẳng ra khỏi hang. Bà nghe thấy bọn ma quái nói với nhau: – Cái bà câm kia, cái bà câm kia! Bà ta đã đến đây từ thế giới của loài người mà vẫn cứ giả câm, giả điếc! Nào, lũ chó! Chúng bay ra cướp lại cái nồi đem lại đây! Chúng ta cho tui bay cái mạng mụ già đó! Lập tức những con chó dữ vừa được tháo xích, chạy bổ ra khỏi hang, đuổi theo vợ người nông dân. Chỉ trong nháy mắt, lũ chó dữ đã cướp được cái nồi và tha vào trong hang. Sau đó, chúng cắn xé người đàn bà tội nghiệp. Bà cố gắng gượng hết sức để vùng chạy khỏi nanh vuốt của bọn chúng. Nhưng chạy về đến nhà, bà đã kiệt sức, ngã lăn trước cửa nhà và qua đời, chưa kịp kể lại cho chồng con nghe chuyện “những người hàng xóm” trong quả đồi kia đã làm gì đối với bà. Nhưng nhìn thấy những vết chó cắn xé và máu chảy đầm đìa trên mình vợ, người nông dân hiểu rằng, chính bọn ma quái ở trên quả đồi đã gây nên cái chết của vợ ông. Ông nổi giận đùng đùng, chạy thẳng vào trong bếp, vác ra một con dao phay to và sáng loáng, rồi lao thẳng lên quả đồi, sau đó ông và những đứa con, vừa khóc vừa chửi, tay lăm lăm dao búa. Nhưng đến nơi, người nông dân đã không tìm được chỗ ở của bọn ma quái. Cửa hang đã đóng chặt từ bao giờ. Ông vừa vung dao chặt cây, chém đá và vừa chửi rủa lũ ma quái, nhưng không thấy bọn chúng đáp lại. Có lẽ bọn ma quái đã vội vã chuyển chỗ ở đến nơi khác rồi chăng? Sau đó, người nông dân đốt ngôi nhà đang ở, và chuyển về trong làng, sống gần với mọi người, khi ông đã chôn cất chu đáo người vợ hiền lành và tội nghiệp của mình. Nhưng mỗi lần, cha con ông đi qua quả đồi đó, họ đều mang dao sắc bên người, hy vọng sẽ gặp lại bọn ma quái này để trả thù. Nhưng từ đó, họ không còn trông thấy bóng dáng bọn chúng đâu nữa. Sau này, có người kể lại, một hôm người tiều phu đã tìm thấy cái nồi to và đẹp trong một cái hang sâu và lạnh trên quả đồi. Nhưng không ai biết đó là cái nồi của gia đình người nông dân trước đây. Chính tôi cũng đã được trông thấy cái nồi đó. Nó chỉ còn là những miếng sắt vụn đã cháy xém. Bỗng nhiên, không hiểu sao, tôi lại nhớ đến lời chú kỳ quặc mà người nông dân và bọn ma quái đã quy ước với nhau: “Cái nồi này để ninh xương Khi nào xong thì trả lại Đừng lỗi hẹn gây điều lo ngại Cái nồi này dùng mãi với nhau Người nấu trước, kẻ nấu sau Làm sao giữ mỗi tâm giao hai nhà Đường đi nào có cách xa!”
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-thuyet-ve-cai-noi" }
Chim lưu lá (Hay là sự tích cây Bông Lau)
Ngày xưa, xưa lắm, có một cụ già rất yêu chim Cụ yêu nhất là những tiếng chim hót hay. Cụ đã yêu và sống với những tiếng hót ấy từ lúc tóc còn xanh. Bây giờ thì tóc cụ đã bạc trắng. Với những loài chim hót hay, hầu như cụ thuộc hết tính nết của từng loài. Lần ấy cụ bỗng nghe ngoài vườn mình có một tiếng chim hót lạ. Tiếng hót hay đến mức cụ phải sửng sốt. Cụ chạy vội ra xem hình dáng con chim thế nào. Nhưng chậm quá, cụ chỉ kịp nhìn thấy nó bay đi, sáng hồng lên như một viên ngọc khá lớn. Từ đó cụ quyết tâm dò, rình để nghe lại tiếng con chim kia. Vậy mà mãi vẫn chưa nghe được. Cụ bèn đi tìm gặp những người hay nuôi chim, bán chim để hỏi xem đó là loài chim gì. Một bữa, đi ngang qua ngọn đồi phía dưới nhà cụ, cụ bỗng thấy có một người gánh hai cái lồng chim đem đi xuống chợ vùng xuôi để bán. Trong một lồng có bốn con chim, màu hồng, đôi mắt to, mỏ nhỏ và sắc. Cụ liền hỏi người bán chim: – Loài chim này tên là gì ông nhỉ? – Giống này hiếm lắm! Tôi chỉ mới gặp được chúng cách đây vài năm. Tìm mãi mới bẫy được bốn con! Chưa biết chúng là giống gì nữa. – Chúng hót hay lắm phải không? – Còn phải nói! Hay hơn cả họa mi! ông cụ ngắm nghía bốn con chim rồi bỗng lại hỏi: – Bốn con này đều hót được cả chứ? – Vâng! ông cụ cười và lắc đầu: – Trong này chỉ có một con hót được thôi. Ba con kia đều là mái cả. Chả nhẽ giống này, chim mái cũng hót được ư? Người bán chim lúng túng ra mặt và tìm cách chống chế: – Tôi cũng không rõ lắm! Bẫy được thì tôi mang đi bán thôi. ông cụ vẫn vui vẻ, ôn tồn: – Nhưng tôi sẽ không mua con trống kia mà chỉ mua của ông một con mái. – Ông mua để nghe hót chứ? – Phải rồi! – Vậy thì ông mua con mái làm gì? ông xem chim tinh quá nên tôi đành nói thật. Đúng là trong này chỉ có một con trống. Nhưng con trống thì giá đắt lắm... – Đắt là bao nhiêu? – Mười quan tôi mới có thể bán được! Tiếng hót của nó không loài chim nào sánh nổi! – May ra thì tôi đã được nghe nó hót một lần. Nhưng để xem thử có đúng không. ông cứ bắt con chim mái nhỏ nhất kia cho tôi, rồi tôi sẽ trả cho ông đủ mười quan tiền như giá con chim trống. Người bán chim cứ ngỡ mình nghe nhầm. Cụ già nhắc lại: – Đấy, ông cứ bắt đúng con chim ấy cho tôi. – Nhưng nó có hót được đâu! – Tôi đã có cách! ông cứ xuống chợ đi. Bán xong ông trở về, ghé lại nhà tôi mà nghe chim hót. Nhà tôi ở ngay sau cái đồi này thôi. Và chỉ có mỗi ngôi nhà tôi ở đấy. Người bán chim đành làm theo đúng lời ông cụ, bắt con chim mái bé nhất và sung sướng nhận đủ mười quan tiền rồi hứa: – Tôi chưa gặp ôi mua chim lạ như cụ cả! Vâng, mấy hôm nữa, tôi sẽ ghé lại thăm cụ... * * * Ghé thăm nhà ông cụ, người bán chim thấy con chim nhỏ mình bán hôm trước, được nhốt trong một cái lồng tuy chỉ làm bằng tre, trúc, nhưng nhìn thật là đẹp và trang nhã. ông cụ rất vui khi thấy người bán chim trở lại. Cụ nói: – Con chim ông bán cho tôi đúng là một con chim quý... Và đây cũng là giống chim tôi đang đi tìm... – Nhưng nó hót được thật ư cụ? – Nó không hót, nhưng nó có thể gọi tất cả những tiếng hót hay nhất của loài chim này đến với nó! – À ra thế. Nhưng cụ đã biết cách bẫy loài chim này chưa? – Bẫy làm gì! Tiếng chim hót tự nhiên ở ngoài trời lúc nào cũng hay hơn tiếng chim hót trong lồng ông ạ! Người bán chim càng phục cụ già vì lời nói rất đúng và rất hay ấy. – Thế nó đã gọi được con chim trống nào đến chưa cụ? – Hôm đầu thì chưa. Nhưng hôm sau thì đã có vài con đến... Còn sáng nay thì chưa biết. Mời ông ăn uống nghỉ ngơi, sáng mai ta cùng xem sự thể ra sao... Sáng hôm sau, vừa thức dậy, người bán chim đã nghe tiếng loài chim quý hót rộn ở ngoài vườn. Còn cụ già thì đang ủ một ấm chè xanh để mời người bán chim cùng uống. – Ông nghe và đoán xem có tất cả mấy con trống đến hót nào? Người bán chim lắng nghe một hồi lâu rồi nói: – Có lẽ bốn năm gì đó! Cụ già cười, vẻ mặt thật rông rỡ. – Đúng là năm con! Không biết mai kia rồi sẽ còn bao nhiêu con đến nữa. Người bán chim bỗng hỏi: – Tại sao trong ba con mái tôi mang đi, ông lại chọn con này? – Tôi phải xét nhiều mặt rồi mới chọn chứ! Trước hết vì nó bé nhưng lại xinh nhất. Với lại khi con trống đến bên hai con kia, tôi biết là hai con kia vui sướng lắm... Còn con này thì cứ bình tĩnh như không. – Làm sao mà cụ lại biết được điều đó? – Có những điều khó mà giải nghĩa cho cặn kẽ được. Nhưng chắc chắn là tôi đã cảm thấy điều đó khá rõ... – Nghĩa là con mái này có ý xem thường con trống kia? – Tôi nghĩ vậy... Và với một con chim khó tính như thế, nhất định nó sẽ gọi được con trống hót hay hơn đến với nó. Người bán chim uống thêm ngụm nước chè xanh rồi lại hỏi: – Thế trong năm con chim đang hót ngoài vườn, theo cụ con nào là con hót hay nhất? Cụ già mỉm cười một cách kín đáo rồi đáp: – Bây giờ thì chưa trả lời cho ông được. Phải chịu khó đợi. Lần sau ông lại ghé, may ra ông sẽ được gặp và được nghe con chim hót hay nhất đấy! * * * Lần thứ hai người bán chim lại ghé thăm nhà ông cụ. Vừa gặp nhau, người bán chim đã nói: – Lần này tôi chẳng bẫy được con nào của giống chim quý kia... Đúng là chúng hiếm thật và lần trước chẳng qua chỉ là chuyện may mắn trời cho. Cụ già nghe nói vẻ mặt tươi cười hẳn lên: – Vậy mà, cái ngày đông vui nhất ở đây đã có đến bảy con chim trống bay đến vườn tôi để hót đấy. – Thế thì đúng là con chim mái của cụ đã gọi hết chúng về cho cụ rồi. Cụ già lại nói tiếp: – Nhưng đến nay thì chỉ còn có... ông thử đoán xem còn mấy con nào? – Chắc là năm sáu con gì đó! – Không! Chỉ còn có... hai con thôi! – Thế những con khác đi đâu? – À hà! Giống chim này lạ lắm! Cứ con nào hót mà không thấy con mái kêu đáp lại, là chỉ mấy hôm sau nó không đến nữa... Chúng cứ ít dần đi theo kiểu ấy. Phía Đông, ở giữa hai hòn núi cao, mặt trời sắp sửa mọc lên. Rừng núi cây cỏ dường như đang chuẩn bị thật gọn, thật đẹp để chào đón mặt trời... Tiếng hót của con chim đầu tiên đã cất lên và liền sau đó tiếng con chim thứ hai... Bỗng cụ già vỗ tay vào đùi, mừng rỡ nói với người bạn bán chim: – Lại có một con trống nữa mới đến! Đấy, nó đang hót đấy! Người bán chim nheo mắt lại lắng nghe. Cụ già nói như reo: – So với con chim này thì hai con còn lại trong số trước, chưa chắc đã sánh được. Nhưng phải đợi nghe và xem thêm... Ba con chim đua nhau hót. Trong buổi sáng, rừng còn mơ màng trong làn sương mỏng, mặt trời mờ mờ vừa như có thật vừa như không có, tiếng chim hót nghe thật tuyệt vời. Nó vừa trong suốt như sương, vừa tinh ông như tiếng trẻ, vừa thiết tha tình cảm yêu thương. Cụ già bỗng nhẹ nhàng đứng dậy rồi rủ người bán chim cùng mình ra vườn. Cụ đã chọn trước một lối đi kín đáo, những con chim trống đang hót cũng không nhìn thấy mà cả con mái đang đứng trong lồng cũng không biết không hay. Ra đến nơi, cụ nấp sau một gốc cây mà từ đó có thể quan sát từng bước nhảy của con chim mái và nghe rõ từng tiếng nó kêu như thể thúc giục những con trống hót thêm, hót nữa cho nó nghe. Cụ ghé sát miệng vào tai người bán chim nói thầm: – Ông chú ý con chim hót ở góc bên trái này nhé! Ba con chim vẫn đua nhau hót. Nhưng không phải với tất cả ba con, con mái đều tiếp nhận tiếng hót của chúng như nhau. Với con này nó chỉ quay đầu sang để tìm. Với con khác nó chỉ nhảy qua nhảy lại ở trong lồng. Nhưng đặc biệt, với cái con hót ở góc bên trái, mỗi lần nghe, con mái lại cứ kêu lên rối rít như gọi, như mời... Những con chim trống cứ bay gần lại dần. Và con chim mái mỗi lúc lại như xúc động hơn. Vài lần, cụ già và người bán chim có cảm giác như nó muốn húc cả đầu vào các thanh trúc để phá chuồng bay ra. Đến nửa buổi sáng thì chỉ còn có hai con trống ở lại. Một con đã bay đi vì hình như nó biết là mình không còn há vọng gì chinh phục con chim mái xinh đẹp, khó tính nữa. Chỉ còn lại hai con trong đó có con chim ở góc vườn trái và một con ở ngay phía trước mặt chỗ ông cụ cùng người bán chim đang nấp. Cụ già lại nói thầm với người bán chim: – Con ở ngay trước mặt là con chim mới đến sáng nay đó. Lúc đầu cụ già có hơi ngạc nhiên. Vì theo cụ con chim này mới là con chim hót hay nhất. Nhưng cụ đã nghe đi nghe lại thật kỹ và dần dần thấy con chim mái kia quả là một con chim rất tinh. Bởi vì tiếng hót của con chim kia tuy có đẹp hơn, sang trọng hơn, nhưng về cái tha thiết, cái tình thì không thể bì với con chim hót ở góc vườn bên trái được. Hai con chim trống lúc này bay đến càng gần hơn. Cụ già và người bán chim đã thấy rõ hai đôi mắt đen nhanh của chúng và càng nghe rõ như kề bên tai, tiếng hót tuyệt vời của chúng. Hai con không hẹn nhau cùng bay vù đến và bám sát cái lồng trúc trong đó có con chim mái. Đến bây giờ thì sự lựa chọn của con mái càng rõ hơn mười mươi. Nó đã bay về phía con chim trống đã làm nó xúc động từ bao hôm nay... và cũng bám vào thành lồng như để được gần kề con chim trống nọ. Chỉ một lúc sau thì con chim có giọng hót đẹp và sang trọng đã buồn bã bay đi mà không hề gây gổ đánh nhau với con chim tình địch của mình. Cùng ngay khi đó, cụ già đã không cần ẩn nấp nữa. Cụ vui vẻ bước đến gần cái lồng trúc, mở cửa lồng ra. Con chim mái mừng rỡ và kinh ngạc bay vù đi, bay theo hướng con chim trống mà nó yêu thích. Người bán chim lạ lùng chưa kịp hỏi gì thì cụ già đã quay lại nói: – Ông cứ tin ở tôi! Sáng mai cả đôi chim lại sẽ bay trở về vườn này và tôi sẽ pha một ấm trà ngon để chúng ta đón nghe tiếng hót hay nhất của loài chim ấy. – Cụ tin chắc như vậy ư? – Chắc chứ! Chúng có một trái tim đầy tình nghĩa, lẽ nào chúng lại quên tôi, quên mảnh vườn chúng đã gặp nhau... ông cứ thử ở lại thêm một ngày mà xem tôi nói có đúng không... Sáng hôm sau, vừa thức giấc, người bán chim đã thấy cụ già nói đúng thật. Đôi chim kia đã trở lại khu vườn. Con chim trống đang hót. Cụ già nghe tiếng nó hót mà tay cầm chén trà cứ run run lên vì xúc động. Đối với cụ, có lẽ trên đời này không có gì đáng trân trọng và đáng ca ngợi hơn là tiếng hót của con chim kia... Mà hình như... cho đến bây giờ đây mới đúng là tiếng hót mà suốt cả một đời, ông cụ đã đi tìm... Trưa hôm ấy cụ gìà tiễn người bán chim ra về và lại dặn: – Khi nào có dịp, mời ông ghé nhà tôi chơi và gặp lại đôi chim đáng yêu, đáng trọng này, trong đó có con chim mái rất tinh đời mà ông đã bán cho tôi... * * * Một tháng sau, người bán chim trở lại. Nhưng ông không gặp cụ già, mà chỉ gặp người cháu của ông cụ. ông hỏi: – Cụ đi lâu chưa và bao giờ trở về? Người cháu ông cụ liền đáp: – Ông tôi đã đi được vài mươi hôm. Còn lúc nào về thì ông tôi không hẹn chắc. Nhưng có phải ông là người đã bán cho ông tôi con chim mái mà trước đây ông tôi thường nhốt trong cái lồng trúc treo dưới gốc cây kia không? Người bán chim nói như reo: – Đúng rồi, tôi đây! – Thế thì ông tôi ra đi chính là vì đôi chim ấy... – Sao lại vì đôi chim? – Ông tôi dặn, ông có đến thì kể cho ông nghe là sau khi ông ở đây về, đôi chim ấy vẫn ngày ngày bay đến hót ở khu vườn này rồi sau đó lại bay vào phía rừng xa... Nhưng chỉ được có năm sáu hôm. Sau đó chỉ có con chim mái bay về. Còn con chim trống hót hay nhất thì bặt tăm... ông tôi đoán chắc có kẻ nào ác đã bắn chết con chim quý kia... Rồi đến lượt con chim mái cũng biến mất nốt. ông tôi nhớ tiếng hót và tiếc hai con chim ấy quá nên nhờ tôi lên đây trông nhà hộ, để ông tôi đi tìm... – Biết đâu mà tìm? Còn không mà tìm? – Tôi cũng đã nói với ông tôi như thế. Nhưng ông tôi không trả lời. ông tôi chỉ nói: đi để há vọng là tìm thấy chúng, được nghe thấy tiếng hót của chúng nó, còn hơn là cứ ngồi ở nhà mà buồn, mà tiếc... – Ông cụ đi về ngả nào? – Ông tôi đi về phương Bắc. Vì trước đây ông tôi đã từng thấy đôi chim quý từ phía ấy bay về đây... Khu vườn lặng im như chết... Đúng là trong sự im lặng này, người ta dễ nhớ và tiếc tiếng hót hay nhất trên đời của loài chim kia. Người bán chim sau đó cũng đã theo hướng người cháu chỉ để thử đi tìm ông cụ. ông đi mãi mà chẳng làm sao gặp được. Mấy năm sau, khi người trong vùng không còn ôi thấy bóng cụ già yêu chim nữa, một hôm người cháu cụ già bỗng thấy trên con đường ông cụ đi tìm chim xuất hiện một loài cây mới, hoa trắng phất phơ như một mái đầu bạc. Khi có gió thổi, chùm hoa trắng nghiêng qua nghiêng lại, người cháu có cảm giác như đây là mái tóc bạc của ông mình đang quay sang bên này, bên kia để tìm kiếm bóng hình và tiếng hót của loài chim quý. Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Bông Lau. Còn cái tên chim Lưu Lá mà cụ già đặt cho loài chim ấy – Theo lời người cháu kể – Thì có một thời người ta còn nhắc đến, nhưng sau đó không còn ôi nhắc nữa... Vì giống chim Lưu Lá , từ rất lâu, rất lâu, đã không còn có nữa ở trên đời.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/chim-luu-la-hay-la-su-tich-cay-bong-lau" }
Sự tích câu nói "Con gà cục tác lá chanh..."
Xưa có một nhà thật giàu có, ruộng nhiều, trâu bò lắm. Phải một hôm đến hơn mười con vừa trâu vừa bò lạc đi đâu mất cả. Sau nhờ bà con láng giềng lùng đi tìm mãi mới lại thấy đủ. Cảm cái ơn to ấy, hai vợ chồng bàn nhau rằng: - Của ta đã mất lại tìm thấy là nhờ lòng tử tế của bà con xóm giềng cả. Vậy giờ ta phải thịt một con Gà, một con Lợn và một con Chó, rồi mời những ai đã giúp ta đến cơm rượu cho thật no say. Hai vợ chồng bàn xong đi ngủ. Đêm nằm thấy ông tổ hiện lên báo mộng rằng: - Tao nghe chúng mày định một bữa mai giết hại những ba con vật. Tao sợ chúng mày làm điều thất đức. Vậy chúng mày mà giết chúng nó, thì phải hóa kiếp cho chúng nó, rồi trong nhà mới yên lành được. Vợ chồng nghe nói, kêu với ông tổ rằng: - Chúng con dương gian mắt thịt, không biết làm cái gì để hóa kiếp cho chúng nó. Xin cụ dạy cho... Ông tổ bảo rằng: - Hễ khi làm thịt gà thì phải hái lá chanh, khi làm thịt lợn thì phải thái củ hành, khi làm thịt chó thì phải giã củ riềng, mà cho thêm vào, thì hồn các con vật ấy mới hóa được. Hai vợ chồng vâng vâng dạ dạ. Mà khi ông tổ nói, con Gà, con Lợn, con Chó, ba con đều nghe thấy tiếng, biết mình không sao tránh khỏi chết, cũng đành vậy. Nhưng ba con chỉ sợ chủ nhà quên điều ông tổ dặn các thứ phải gia thêm vào thịt cho mau hóa kiếp, nên mới sáng tinh sương, ba con đều ùa nhau kêu ầm lên: Gà thì: Cục tác lá chanh. Lợn thì ủn ỉn: Mua hành cho tôi. Chó thì khóc đứng khóc ngồi: Mẹ ơi, mẹ hỡi, mua tôi đồng riềng. Vì chuyện này mà từ đó ta ăn gà, phải có lá chanh, ăn lợn phải có hành, ăn chó phải có riềng thì ăn mới ngon mà cũng tức là để chóng hóa kiếp cho ba con vật rất có ích cho ta vậy.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cau-noi-con-ga-cuc-tac-la-chanh" }
Vương quốc vắng nụ cười
Ngày xửa ngày xưa, có một vương quốc buồn chán kinh khủng chỉ vì cư dân ở đó không ai biết cười. Nói chính xác là chỉ có rất ít trẻ con cười được, còn người lớn thì hoàn toàn không. Buổi sáng, mặt trời không muốn dậy, chim không muốn hót, hoa trong vườn chưa nở đã tàn. Ra đường gặp toàn những gương mặt rầu rĩ, héo hon. Ngay kinh đô là nơi nhộn nhịp cũng chỉ nghe thấy tiếng ngựa hí, tiếng sỏi đá lạo xạo dưới bánh xe, tiếng gió thở dài trên những mái nhà… Nhà vua, may sao, vẫn còn tỉnh táo để nhận ra mối nguy cơ [1] đó. Ngài họp triều đình và cử ngay một viên đại thần đi du học [2], chuyên về môn cười. Một năm trôi qua, thời hạn học tập đã hết, nhà vua thân hành [3] dẫn các quan ra tận cửa ải đón vị đại thần du học trở về. Ai cũng hồi hộp mong nhìn thấy nụ cười màu nhiệm của ông ta. Nhưng họ đã thất vọng. Vị đại thần vừa xuất hiện đã vội rập đầu, tâu lạy: – Muôn tâu Bệ hạ, thần xin chịu tội. Thần đã cố gắng hết sức nhưng học không vào. Các quan nghe vậy ỉu xìu, còn nhà vua thì thở dài sườn sượt. Không khí của triều đình thật là ảo não. Đúng lúc đó, một viên thị vệ hớt hải chạy vào: – Tâu Bệ hạ! Thần vừa tóm được một kẻ đang cười sằng sặc ngoài đường. – Dẫn nó vào! – Nhà vua phấn khởi ra lệnh. Cả triều đình háo hức nhìn con người phi thường vừa xuất hiện. Hóa ra, đó chỉ là một cậu bé chừng mười tuổi, tóc để trái đào [4]. Nhà vua bèn ngọt ngào bảo cậu: – Hãy nói cho ta biết vì sao cháu cười được! – Muôn tâu Bệ hạ, những chuyện buồn cười không thiếu đâu ạ. Ngay tại đây cũng có. Bệ hạ tha cho tội chết, cháu sẽ nói. – Nói đi, ta trọng thưởng. Cậu bé ấp úng: – Chẳng hạn, sáng nay, Bệ hạ đã quên… lau miệng ạ. Nhà vua giật mình, đưa tay lên mép. Một hạt cơm lăn xuống áo hoàng bào. Các quan đưa tay bụm miệng cười. Đến khi cậu bé chỉ quả táo cắn dở đang căng phồng trong túi áo của quan coi vườn ngự uyển [5] thì ai nấy đều bật cười thành tiếng. Nhà vua gật gù. Thế rồi, ngắm nhìn cậu bé, ngài bỗng hỏi: – Này cháu, vì sao nãy giờ cháu cứ đứng lom khom thế? – Tâu Bệ hạ, ban nãy cháu bị quan thị vệ đuổi, cuống quá nên… đứt dải rút ạ. Triều đình được mẻ cười vỡ bụng. Tiếng cười thật dễ lây. Ngày hôm đó, vương quốc nọ như có phép màu làm thay đổi. Đến đâu cũng gặp những gương mặt tươi tỉnh, rạng rỡ. Hoa bắt đầu nở. Chim bắt đầu hót. Còn những tia nắng mặt trời thì nhảy múa và sỏi đá cũng biết reo vang dưới những bánh xe. Vương quốc u buồn đã thoát khỏi nguy cơ tàn lụi. Chú giải [1] Nguy cơ : điều có thể gây ra tai họa lớn. [2] Du học : đi học xa (thường là ở nước ngoài). [3] Thân hành : tự mình làm, không để người khác làm thay. [4] Tóc để trái đào : đầu cạo trọc, chỉ để lại vài ba mớ tóc trông như quả đào. [5] Vườn ngự uyển : vườn hoa trong cung vua.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/vuong-quoc-vang-nu-cuoi" }
Truyền thuyết về Cồn Tàu (Bến Tre)
Ngày xưa, ở làng chợ Cả Sê bây giờ thuộc tỉnh Mỹ Tho có hai anh em ruột: một người tên là Bảy Giao, một người tên là Chín Quỳ. Cha mẹ họ mất sớm chỉ để lại cho vài mẫu ruộng xấu. Vốn người lực lưỡng, hai anh em có chí muốn đưa sức ra thi thố với đời. Nghe nói ở Bình định có nhiều tay giỏi võ, họ mới bán hết số ruộng của mình rồi đeo khăn gói ra ngoài đó học. Họ đã học với rất nhiều thầy, chẳng bao lâu thông thuộc đủ mười tám ban võ nghệ. Hai chàng nức chí muốn lập công danh. Nhưng gặp lúc triều đình mở rộng cửa văn khép chặt cửa võ, nên cuối cùng họ không biết làm gì kiếm ăn, đành phải trở về quê cũ. Về đến làng, hai chàng dạy võ cho người ta để kiếm sống nhưng tiếc thay tài nghệ không đủ nuôi miệng. Túng thế, họ rủ nhau đi làm cái nghề khoét vách trèo tường. Dần dần bạo dạn, họ trở thành nhũng tay đón đường cướp của rất thạo. Nhưng họ chỉ lấy tiền bạc của bọn nhà giàu rồi đem của đã chia cho những người nghèo khó mà họ gặp. Sau mười năm làm nghề lục lâm, áo rách vẫn hoàn áo rách. Bảy Giao bảo Chín Quỳ rằng: – Chúng mình toàn đem tài sức giúp thiên hạ nhưng không gặp thời. Sống trốn tránh lẩn lút thế này không thích. Thôi chúng mình hãy bỏ cái nghề này, đi chỗ khác làm ăn! Hồi ấy ở Cồn Tàu chưa được khai phá, nửa cồn trên toàn là cây “gừa”, nửa cồn dưới thì là dừa nước, cây mọc chi chít rậm như rừng. Ở đó có một vị thần rất thiêng, có hai bộ hạ là hổ và lợn rất dữ tợn, hoành hành trong một vùng. Từ lâu, thần ta đã báo cho biết: hễ ai đến chặt phá khoảng rừng đó thì phải nộp một mạng người. Có nhiều người vô ý chỉ đến chặt mặt gánh củi nhưng chưa ra khỏi cồn đã bị thần sai bộ hạ quật chết. Vì thế đã lâu rồi không ai dám lai vãng. Một nhánh củi khô của thần cũng còn nguyên vẹn. Hai anh em nghe được tin ấy liền đến Cồn Tàu khấn với thần rằng: – Chúng tôi nghe tin ngài linh thiêng, hễ ai phá rừng phải dâng một mạng. Nay chúng tôi cũng xin cúng một mạng, nhưng chỉ xin ngài rộng cho trong ba năm đừng phá quấy gì hết. Đủ ba năm rồi, ngài muốn lựa bắt đứa nào cũng được, hãy bắt cả hai chúng tôi cũng xin vui lòng. Thấy họ cam đoan như thế, thần ta bằng lòng cho họ đến. Rồi đó, họ sắm một chiếc ghe chèo đến đây chặt cây, chặt lá chở ra chợ bán. Hết chuyến này họ làm chuyến khác. Chẳng bao lâu chặt trọc một khu rừng hoang. Thần lỡ lời hứa: phải để cho họ làm nhưng trong lòng rất căm tức. Sắp sửa đúng ba năm, hai anh em nhớ tới lời hẹn, bèn nhờ thợ rèn, rèn cho hai cái côn sắt nặng hàng trăm cân. Đoạn, họ đến Cồn Tàu khấn với thần rằng: – Chúng tôi y ước tới nộp mạng. Mời thần cho người đến lấy! Nói rồi cởi áo, mỗi người một côn sắt đứng đấu lưng lại với nhau thủ thế. Thần sai bộ hạ thứ nhất là hổ đen ra lấy mạng, hổ đen từ trong hang tiến đến nhảy ngay vào mình Chín Quỳ. Chín Quỳ nhanh tay choảng cho một côn, hổ đen ngã lăn ra chết giấc. Thấy thế, thần nổi giận xung thiên, sai ngay bộ hạ thứ hai là lợn lòi ra hạ thủ. Lợn to bằng con nghé, răng nanh dài hơn gang tay, miệng đầy bọt, chạy xộc xộc xông vào người Bảy Giao. Chàng vụt luôn một côn trúng vào đùi. Lợn tuy què một cẳng nhưng được thần tiếp sức cho nên vẫn rất dũng mãnh, nhảy xô vào Bảy Gian toan cắn. Chín Quỳ quay người lại cứu anh, và cả hai người chật vật lắm mới hạ được con lợn dữ. Thần ta thấy một lúc mất luôn hai bộ bạ đắc lực của mình thì sợ quá không dám làm gì nữa. Hai anh em đợi mãi đến chiều mới trói lợn và hổ lại đưa xuống ghe và khấn rằng: – Nay ngài thương chúng tôi, đã không giết lại thưởng cho thịt, chúng tôi rất cám ơn. Vậy từ nay hủy bỏ hết những lời hứa trước. Khấn xong, họ đem về nhà xẻ thịt cho làng xóm ăn. Người ta nói từ đó thần hết thiêng. Mọi người đổ xô đến Cồn Tàu khai phá, cấy lúa làm ăn và bây giờ trở nên một vùng ruộng đất phì nhiêu.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/truyen-thuyet-ve-con-tau-ben-tre" }
Cưỡi gió mạnh, đạp sóng dữ...
Thuở ấy, nước ta bị giặc Ngô bên Trung Quốc đô hộ. Giặc Ngô tham tàn bạo ngược, vơ vét của cải, ức hiếp dân lành. Đất nước tiêu điều, xơ xác, lòng dân oán hận, căm hờn. Hằng ngày, chứng kiến cảnh nhân dân bị giặc Ngô đánh đập, cướp bóc, cha phải đêm ngày cùng dân làng kiếm tìm những sản vật quý cống nạp cho tên thái thú quận Cửu Chân, Triệu Thị Trinh vô cùng uất hận, nung nấu ý chí quét sạch giặc Ngô ra khỏi bờ cõi. Cha và anh Triệu Thị Trinh đồng lòng, cùng nàng chuẩn bị lực lượng, tích trữ lương thảo, đợi thời cơ. Không may, cha lâm bệnh nặng, qua đời. Triệu Thị Trinh nghe lời anh là Triệu Quốc Đạt về quê mẹ ở núi Tùng tập hợp hào kiệt, rèn luyện binh mã, chờ thời cơ. Ở vùng núi Tùng bấy giờ xuất hiện một con voi trắng một ngà rất hung dữ. Triệu Thị Trinh dụ voi xuống bãi lầy rồi nhảy lên cưỡi, thuần phục được voi. Sau sự việc này, để khích lệ lòng dân, nghĩa quân đục núi Quân Yên, bí mật cho người ngồi trong hốc đá, đọc bài đồng dao: Có Bà Triệu tướng, Vâng lệnh trời ra. Trị voi một ngà, Dựng cờ mở nước. Lệnh truyền sau trước, Theo gót Bà Vương. Tin đồn về hòn đá biết nói và Bà Triệu là “thiên tướng giáng trần” giúp dân, cứu nước càng khiến nhân dân khắp nơi hưởng ứng nhiệt liệt phong trào khởi nghĩa. Biết tin anh em Bà Triệu chuẩn bị khởi nghĩa, tên thái thú lo sợ, phái một nguy quan là bà con với vợ Triệu Quốc Đạt đi do thám tình hình. Vợ Triệu Quốc Đạt bèn nghĩ ra kế: ép chồng gả em gái cho tên nguy quan. Biết chuyện, Triệu Thị Trinh khảng khái nói: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân giặc, giành lại giang sơn, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”. Thấy mưu không thành, vợ Triệu Quốc Đạt bày kế cho tên thái thú đòi Triệu Quốc Đạt lên gặp để ở nhà mai phục bắt Triệu Thị Trinh. Triệu Thị Trinh biết âm mưu đó liền bắt gọn bọn phục binh, mắng nhiếc chị dâu, rồi cho người cấp tốc đuổi theo Quốc Đạt, gọi ông trở về. Ngay đêm ấy, dưới ánh đuốc sáng ngời, trong tiếng trống đồng, tiếng cồng chiêng vang dội rừng núi Cửu Chân, trước ba quân, tướng sĩ, Triệu Quốc Đạt làm lễ tế cờ, tuyên cáo với trời đất. Nhiều bộ tộc ở vùng rừng núi Cửu Chân, Giao Chỉ dẫn quân về hội nghĩa. Quân ta tiến công ồ ạt. Các huyện thành của giặc Ngô bị tiêu diệt, lửa cháy ngút trời, thành quách bị san bằng. Quân Ngô lớp trốn chạy, lớp bị tiêu diệt. Trong các trận quyết chiến, Triệu Thị Trinh mặc áo giáp, cưỡi voi trắng một ngà, luôn dẫn đầu. Nhân dân khắp nơi vui mừng trước tin thắng trận dồn dập của nghĩa quân, hăng hái đốc thúc chồng con tòng quân và tiếp tế lương thực cho nghĩa quân : Ru con con ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi. Muốn coi lên núi mà coi, Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng. Khiếp sợ trước sự lớn mạnh như vũ bão của nghĩa quân, giặc Ngô tập trung hết lực lượng để đối phó. Trong một trận đánh, Triệu Quốc Đạt bị lọt vào giữa vòng vây, trúng tên, anh dũng hi sinh. Được tin anh tử trận, Triệu Thị Trinh lệnh cho tướng sĩ để tang, rồi lên ngôi chủ tướng, thề quyết trả thù cho anh. Giữa đêm, bà dẫn quân đi, bao vây quận Cửu Chân, đầu não của bọn đô hộ. Nghĩa quân giao tranh với giặc đến chiều hôm sau thì san phẳng được thành luỹ. Tên thái thú bị bắt và bị chém đầu để tế Triệu Quốc Đạt và các chiến sĩ đã bỏ mình vì nước. Bình định xong quận Cửu Chân, Bà Triệu kéo đại quân tiến đánh Giao Chỉ. Đại quân tiến đến đâu, quân Ngô khiếp sợ bỏ trốn hoặc xin hàng, thành nào chống cự đều bị tiêu diệt. Cả một vùng Giao Châu rung động. Tin Giao Châu đã bị quân khởi nghĩa của Bà Triệu thu phục bay về triều đình nhà Ngô. Năm 248, vua Ngô lo sợ, cử tên tướng Lục Dận sang đánh dẹp. Lục Dận rất lắm mưu mô. Hắn cử những toán lính nhỏ luồn sâu trong rừng núi, bỏ thuốc độc vào sông, suối; chặn đường tiếp tế, đốt các kho lương của nghĩa quân rồi tập trung hàng chục vạn quân tấn công. Nghĩa quân chống cự hết sức dũng cảm. Cuối cùng phòng tuyến bị vỡ, Bà Triệu phải rút về núi Tùng. Lục Dận cho quân vây chặt. Sau mấy tháng lương thực cạn kiệt, biết thế đã cùng, lực đã tận, Bà Triệu lên đỉnh núi Tùng nhìn quê hương lần cuối rồi rút kiếm tự vẫn. Bấy giờ là ngày 21 tháng 2 Âm lịch, lúc Bà mới 20 tuổi xuân và đã đánh hơn 30 trận oanh liệt. Voi trắng một ngà chứng kiến cảnh ấy, ứa nước mắt, rống lên một tiếng dài đau thương rồi chạy mất hút vào rừng sâu. Nhân dân vô cùng thương tiếc Bà Triệu, xây lăng mộ Bà ở chân núi Tùng. Hằng năm, vào ngày Bà mất, người người nô nức về đây thắp hương, tưởng nhớ người nữ anh hùng đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/cuoi-gio-manh-dap-song-du" }
Sự tích con kiến Dương
Thuở xưa ở một làng nọ có anh chàng họ Dương, rất keo kiệt và lười biếng. Tối ngày chỉ rong chơi đây đó và la cà những nơi đình đám để kiếm ăn. Thấy anh chàng còn trẻ mà không lo chuyện học hành, cũng chẳng lo làm lụng nên dân làng rất khinh ghét, chẳng ai chịu cho ăn, khiến cho anh chàng đói khổ rồi bỏ làng mà đi. Lang thang khắp nơi để kiếm ăn, rồi một ngày kia vì quá đói khát anh ta mệt lả ngã ra bất tỉnh bên đường. Trong cơn mê man anh ta thấy trước mắt tự nhiên hiện ra một núi vàng. Mừng rỡ, anh ta định chạy đến hốt vàng thì bỗng nghe một tiếng quát: – Ngươi kia, ở đâu tới đây mà dám ngang nhiên lấy vàng của ta? Ngươi không biết ta là thần núi vàng hay sao? Anh chàng họ Dương hốt hoảng nhìn lên thì thấy một cụ già dáng điệu hiền từ nhân hậu, chàng ta liền khóc lóc than van. Vị thần thấy vậy động lòng nhân từ: – Thôi được ta sẽ giúp ngươi. Nhưng khi được giàu sang rồi, ngươi sẽ xử sự với đời như thế nào? Anh chàng họ Dương thề là sẽ lấy lòng nhân mà ở đời và sẽ giúp đỡ người nghèo khó, và thề độc nếu trái lời thì sẽ bị hoá thành loài sâu bọ phải tự đi kiếm ăn và bị người đời ghét bỏ, lúc nào cũng chui rúc trong khe vách, chân tường. Vị thần nghe nói vậy liền trao cho anh chàng họ Dương một cái túi rồi xô anh chàng xuống núi. Anh ta giật mình tỉnh giấc thấy trong tay mình đang nắm một túi đầy vàng thì mừng rỡ trở về mua sắm đủ thứ và sống một cuộc sống rất xa hoa. Những người trước kia hay xua đuổi anh chàng họ Dương lân la tới làm thân. Anh chàng họ Dương nhớ tới thù xưa nên căm tức tìm đủ mọi cách để làm nhục họ. Còn những người nghèo đến xin ăn thì bị anh ta khinh rẻ, xua đuổi. Một hôm có một lão ăn mày, mình mẩy lở loét, áo quần rách rưới đến xin ăn. Anh chàng họ Dương cũng xua đuổi nhưng lão già cứ ngồi lì trước nhà không chịu đi. Anh chàng thấy thế giận lắm, nghĩ nhà đẹp mà lại bị một lão già hôi hám, dơ dáy ngồi ngay lối vào nên xách gậy ra đánh đuổi. Nhưng khi đưa gậy lên lão ăn mày hiện hình thành vị thần núi vàng năm xưa và mắng rằng : – Nhà ngươi thật là bạc ác, tội không thể tha. Nhà ngươi có nhớ lời thề khi xưa chăng? Nói rồi vị thần hoá phép và biến anh chàng thành loài sâu bọ mà người đời sau này gọi là kiến Dương . Chỉ chui rúc suốt ngày, hễ đụng đến thì cuộn tròn mình lại để giấu sự xấu hổ.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-con-kien-duong" }
Sự tích hoa Cải Vàng
Ngày xưa, xưa, xưa, tại vùng đồi núi nọ, có một cụ già chỉ bán dao kéo mà nổi tiếng khắp gần xa. Không ôi biết ông cụ ở đâu. Cũng không biết ông đi mua dao kéo hay làm ra dao kéo để bán. Vùng này lâu lâu mới họp chợ. Nhưng không phải phiên chợ nào ông cũng đến. Mà thường chỉ có mặt vào những phiên chợ cuối tháng. Vì vậy, mỗi lần thấy ông, mọi người lại xô đến mua dao kéo. Người trong vùng ôi cũng biết là dao kéo ông cụ bán vừa sắc, vừa bền. Ngoài ra, người ta đồn ông còn bán cả những con dao, cái kéo kỳ lạ nữa. Lần ấy có một gã dáng vẻ ngông nghênh đến hỏi mua một con dao lớn. ông cụ nhìn mặt gã rồi hỏi rất nhẹ nhàng: – Anh mua con dao này để làm gì? – Để chặt cây - Ông già nhìn kỹ vào đôi mắt gã kia và biết là gã nói dối - Ông liền bảo: – Con dao này đã có người mua! Gã kia trợn mắt quát to: – Có người mua, sao không nói ngay, lại còn hỏi ta mua để làm gì? Gã định giở trò cướp không con dao. Nhưng ông cụ đã nhanh tay cầm trước con dao và nói: – Đây là một con dao quý. Tôi có thể dùng nó chém đổ cái cây bên kia đường. ông cụ nói xong, dùng dao chém nghe vù một cái. Lập tức cái cây bên kia đường kêu rắc rắc một tiếng và đổ gục xuống. Gã kia sợ quá. Gã hiểu rằng nếu gã định giở trò gì thì ngay lập tức, có thể bị ông cụ dùng con dao ấy, chém gãy tay, thậm chí đứt đầu mà con dao không cần chạm đến người. Gã ta chuồn thẳng. Hỏi ra mới biết đó là một tay trộm cướp nhiều người đã biết mặt. Một lúc sau, một người trai trẻ khác đến hỏi mua con dao nọ. ông cụ nhìn ông, hỏi nhẹ nhàng: – Anh mua con dao này để làm gì? – Thưa cụ! Để cùng dân làng cháu đánh đuổi bọn cướp ở nước bên kia, cứ thỉnh thoảng kéo sang cướp của, giết người... ông cụ nhìn kỹ vào đôi mắt chàng trai và biết đây là một người tốt. ông bán ngay con dao nọ cho chàng trai với cái giá không đắt như mọi người tưởng. ông còn bày cho ông cách tập dùng dao để có thể chém giết những tên giặc cướp từ xa. Sau đấy khá lâu, có một chú bé chừng mười bốn tuổi, mười lăm tuổi tìm đến gặp ông cụ ở chợ phiên. Chú mừng lắm. Nhưng chú chỉ đứng nhìn ông trân trân... ông cụ liền hỏi: – Cháu muốn gì cứ nói cho ta biết! – Thưa cụ, không biết có cái kéo nào... Chú bé ngập ngừng. ông cụ lại khuyến khích chú: – Cháu cần thứ kéo gì? Thấy vẻ mặt ông vẫn hiền lành, vui vẻ, chú bé mới dám nói thêm: – Thưa cụ, cái thứ kéo có thể cắt được... nắng ấy mà! Mọi người đứng xung quanh đấy cười ồ lên... trừ ông cụ. ông cụ ôn tồn hỏi chú bé: – Cháu cần cắt nắng để làm gì? – Thưa cụ, bà cháu già yếu quá. Mùa đông vừa mới đến mà ban đêm, đắp chiếu nằm trên ổ lá, bà cháu kêu là rét quá cứ như nằm trên nước... Bà cháu ốm liền hai trận. Bà cháu ước có cái kéo, cắt được một vạt nắng mang về cất giữ, đêm đến mang ra cho bà cháu đắp, chắc bà cháu sẽ được ấm, sẽ khỏi bị ốm và chết vì rét ạ! – Nhà cháu ở gần đây chứ? – Thưa cụ xa lắm ạ. Cháu phải đi mất hai ngày đường. – Bố mẹ cháu đâu? – Thưa cụ, bố mẹ cháu mất sớm cả rồi. Bà cháu đã vất vả nuôi cháu từ bao năm nay. – Bà bao nhiêu tuổi rồi, còn làm gì được không? – Thưa cụ, sang năm là bà cháu đúng bảy mươi tuổi đấy ạ! Bà cháu vẫn nhúc nhắc dệt cho nhà người ta mỗi ngày được một ít vải để kiếm gạo ăn. – Còn cháu? – Cháu đi chăn lợn cho nhà hàng xóm, và cũng bắt đầu đi xin học dệt ạ. ông cụ nhìn chú một cách trìu mến rồi bảo: – Cháu ạ! Đây là lần đầu tiên ta nghe có người hỏi mua kéo để cắt nắng... Cũng hay, hay lắm. Nhưng ta chưa có để bán cho cháu ngay được... Phiên sau, ta sẽ mang kéo đến đây. Liệu cháu có thể đến được lần nữa không? – Thưa cụ, một lần chứ hai lần, ba lần, cháu vẫn xin đến. Vào ngày phiên chợ sau chú bé lại đến ngóng đợi ông cụ. Mọi người biết chuyện cũng kéo đến xem. ông cụ đến chào mọi người rồi đưa cho chú bé một cái túi xếp bằng bẹ chuối khô. Chú bé mở ra thấy một cái kéo, chỗ cầm cắt thì bằng sắt nhưng lưỡi lại bằng cật tre, và kèm theo một mảnh giấy có chép mấy câu thơ. ông cụ bảo chú bé: – Cháu cứ làm đúng theo mấy câu này thì sẽ cắt được nắng cho bà cháu đắp. Ta biết cháu nghèo lắm nên tặng cho cháu cái kéo này. Thôi, cháu về đi. Ta cũng phải đi ngay vì có hẹn với khách hàng ở nơi khác. Nói xong, ông xách bị dao kéo đi luôn. Mọi người xúm lại bảo chú bé đọc mấy câu thơ, chú liền đọc: Kéo cắt một lần Biến mất liền tay Nắng chảy thành sợi Cắt ngay! Cắt ngay! Cái chăn toàn nắng ấm đêm ấm ngày Chăn truyền hơi ấm Nhà ấy, nhà này, Nắng chui xuống đất Trở về, lung lay... Mang cái kéo và mấy câu thơ về làng, chú bé kể lại hết mọi chuyện cho bà nghe. Cả hai bà cháu nghĩ mãi mà vẫn chưa hiểu mấy câu thơ nói gì. Một buổi trưa, đang ngồi bần thần nhìn mấy tia nắng từ mái nhà tranh dột nát rọi xuống nền nhà, chú bé bỗng reo lên: – Đúng là nắng chảy thành sợi kia rồi! Chú bé liền chạy đi lấy cái sàng gạo, rồi leo lên mái nhà. Chú bới chỗ mái tranh bị dột nát cho rộng ra rồi đặt cái sàng vào đó. Mặt trời rọi xuống, cái sàng có bao nhiêu lỗ thì có bấy nhiêu tia nắng rọi xuống, nhìn cứ vàng óng. Chú bé liền đem cái kéo của ông cụ cho thử cắt những sợi nắng xem có cắt được không. Lạ lùng chưa, những sợi nắng theo nhau rơi xuống cứ óng ánh, lấp lánh. Chú bé liền cắt tiếp. Những sợi nắng chồng lên nhau cao dần. Chú lại cắt nữa, cắt nữa. Bây giờ thì những sợi nắng đã vun lên thành một đống khá cao. Bỗng chú bé "ồ" lên một tiếng. Cái kéo tự nó đã biến mất ở ngay trong tay chú bé lúc nào không hay. Chú bé liền chạy ra vườn sau mừng rỡ gọi bà về. Thấy cả một núi sợi nắng nằm sáng rực ở giữa nền nhà, bà cụ mừng quá cứ tưởng mình đang nằm mê. – Bà ơi! Cháu và bà hãy dệt những sợi nắng này thành một tấm chăn thật dày. Bà không còn phải lo bị rét, bị ốm nữa! Hai bà cháu dệt xong tấm chăn thì người trong xóm kéo đến chật cả nhà. ôi cũng sờ tấm chăn và ôi cũng khen là ấm quá. Chú bé sực nhớ hai câu thơ: Chăn truyền hơi ấm Nhà ấy, nhà này Chú liền bảo mấy người hàng xóm mang chăn của họ đến nhà chú. Chú trải từng cái chăn của họ rồi đắp cái chăn vàng óng của bà mình lên trên. Chỉ một lúc sau, cả hai cái chăn đều ấm như nhau. Người xóm gần xóm xa thấy thế mừng quá liền rủ nhau mang chăn đến để xin cái hơi nắng ấm. Nhớ ơn ông cụ đã cho mình cái kéo có phép lạ, chú bé liền đi tìm ông để tạ ơn. Nhưng một lần, rồi hai lần, đi chợ phiên chú bé không làm sao gặp lại được ông cụ. Chú bé đành buồn rầu ra về. Nhờ có cái chăn ấm, tuổi thọ của bà cụ được kéo dài ra. Chú bé đã thành một chàng trai, dệt giỏi có tiếng. Chàng trai lấy vợ rồi có con. Bà cụ vui lắm. Nhưng rồi cũng đến lúc bà phải từ giã cõi đời. Trước khi nhắm mắt, bà dặn các cháu chắt: – Các cháu đã thương bà hết lòng. Bà con ôi cũng yêu quý các cháu. Bà chết mà lòng rất nhẹ nhàng. Nhớ đến cái chăn quý, bà cụ lại dặn: – Bà về với đất, đất ấm chứ chẳng lạnh đâu. Các cháu cứ giữ cái chăn quý lại mà dùng. Ngày chôn cất bà cụ, trời bỗng trở rét đậm. Hai vợ chồng người cháu bàn nhau mang cái chăn quý ra đắp lên trên mộ cho bà được ấm. Trời xẩm tối. Bó hương cắm ở đầu nấm mồ đỏ rực. Cái chăn phủ lên nấm mồ cũng sáng bừng lên. Hai vợ chồng người cháu ngồi bên nấm mồ một lúc lâu rồi trở về nhà. Nửa đêm thức dậy, nhìn ra nấm mồ của người bà, chôn ngay trên cái gò ở trước mặt nhà, hai vợ chồng người cháu bỗng thấy có khói bốc nhiều trên nấm mồ. Hai vợ chồng chạy ra thì thấy tàn lửa của bó hương bay đáp xuống làm cái chăn cứ cháy âm ỉ, lửa không bốc thành ngọn. Cái chăn đã thành tàn tro đen. Sáng hôm sau, ra thăm lại mộ thì những tàn tro đen của cái chăn đã bị gió thổi bay tản mạn khắp trên gò. Mùa đông năm sau đến. Cái gò trước kia, vào mùa giá rét, thường vẫn trở lạnh, vắng vẻ, năm nay bỗng mọc đầy một loài cây mới lá xanh một màu xanh thật hiền lành, lặng lẽ. Khi những cây ấy trổ hoa thì cả khu gò vàng rực lên như được phủ đầy nắng. Gió bấc thổi, cả khu gò đầy hoa vàng lại lung lay. Mãi đến lúc này, người cháu mới sực nhớ đến hai câu cuối trong bài thơ: Nắng chui xuống đất Trở về, lung lay Như thế có nghĩa là loài cây mới, có hoa vàng như nắng này là từ những tàn tro của cái chăn dệt bằng những sợi nắng, vùi xuống đất, Sinh ra. Qua hết mùa hoa, những cây kia kết quả. Những quả nhỏ và dài trong đựng đầy những hạt nhỏ li ti, màu nâu đen, nhìn giống như những tàn tro của chiếc chăn quý. Mang những hạt ấy về vườn gieo vãi, bà con trong xóm lại thấy mọc lên loài cây mới mà ngày nay ta gọi là cây Cải Hoa Vàng. Bà con thường gieo cải trên những mảnh vườn lớn, nhỏ, khi cải nở hoa, từng mảnh vườn lớn, nhỏ ấy cứ vàng rực như từng mảng nắng lớn, có gió thổi cứ khẽ đong đưa, đong đưa... và từng bông hoa như muốn nói một điều gì với ôi đang nhìn nó...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-hoa-cai-vang" }
Sự tích cây Gạo
Ngày xưa, xưa, xưa… có một chàng họa sĩ trẻ có tài. Chàng không chỉ có tài vẽ mà còn đoán được người mình vẽ đang lo nghĩ gì, mơ ước gì để vẽ ra. Vua nghe tiếng, cho quan đi tìm mời về kinh để thử tài. Lần đầu tiên gặp vua ở ngay trong cung, chàng họa sĩ rất xúc động. Nhưng vua chỉ nhìn chàng rồi ngồi im. Quan đại thần ra lệnh cho chàng: - Ngươi hãy vẽ cái điều nhà vua đang nghĩ! Chàng họa sĩ trẻ ngẩng cao đầu nhìn vào một lúc lâu rồi vẽ ngay một cánh đồng lúa đang chín vàng. Vẽ xong, chàng dâng lên quan đại thần để nhờ quan dâng lên vua. Quan đại thần đón lấy bức tranh và hỏi: - Sao nhà ngươi lại vẽ cảnh này? - Thưa quan đại thần vì người ngồi trên ngai vàng không phải là đấng Thiên tử, mà chỉ là một bác nông dân Thiên tử cho phép ngồi để thử tài thần mà thôi. Bác nông dân dược triệu lên đây, nhưng lòng vẫn đang nghĩ về cánh đồng lúa chín chưa kịp gặt trước khi đi. Hỏi “nhà vua” đang ngồi trên ngai vàng, “nhà vua” liền gật gật đầu nhận là chàng họa sĩ đã đoán đúng và vẽ đúng. Quan đại thần liền thưởng cho chàng cốc rượu vua ban và bảo: - Thôi thế là tài của nhà ngươi Thiên tử đã rõ rồi. Ngày mai, ngươi hãy trở vào đây để vẽ cho nhà vua. Hôm sau chàng trẻ tuổi lại vào cung. Vua ngồi trên cao, khẽ gật đầu khi chàng quỳ xuống lạy. Chàng họa sĩ bắt đầu ngẩng nhìn kỹ nhà vua để vẽ. Chàng vẽ một cách chậm rãi và dâng lên một bức tranh có một bà cụ đang ốm, nằm cạnh một siêu thuốc. Quan đại thần đón lấy tranh xem xong, hỏi: - Sao nhà ngươi lại vẽ cái cảnh như thế này. Ta e sai mất rồi! - Thưa quan đại thần, tôi đã vẽ rất đúng. Nếu sai tôi xin chịu tội. - Nhà ngươi nói đúng là đúng như thế nào? - Thưa quan đại thần, vì người ngồi trên ngai vàng cũng vẫn chưa phải là đấng Thiên tử. Đấy chỉ là một vị quan trong triều có mẹ ốm nên đang lo lắng chuyện thuốc thang cho mẹ. Xin quan đại thần cứ hỏi thử xem tôi đoán và vẽ có đúng không? Một lần nữa, chàng họa sĩ trẻ đã đoán và vẽ đúng. Quan đại thần thưởng cho chàng hai cốc rượu của vua ban rồi dặn chàng hôm sau vào cung. Lần thứ ba chàng họa sĩ lại đến. Chàng nhìn kỹ người đang ngồi trên ngai vàng rồi sụp xuống lạy. Vua tươi cười bảo quan đại thần hãy đỡ chàng dậy và chính vua ra lệnh cho chàng: - Hỡi người họa sĩ trẻ tuổi mà ta rất có lòng yêu mến! Nhà ngươi hãy vẽ đúng cái điều mà ta đang lo nghĩ đi! Chàng họa sĩ liền lấy giấy, bút, các màu phẩm ra vẽ ngay, tay bút như múa lượn trên tấm lụa căng thẳng, màu sắc như từ một thế giới nào ở xa hiện về. Chàng vẽ xong thì vua cũng vừa bước xuống, đứng bên cạnh chàng, đỡ lấy bức tranh lên xem. Trong bức tranh, một ngôi đền cao lớn có nhiều tầng được trang trí đầy những bông hoa rực đỏ như những ông mặt trời nho nhỏ đang tỏa sáng và xen vào đấy là những con sáo mỏ vàng tươi, lông đen biếc như đang vừa nhảy vừa hót mừng. Vua xem xong liền lắc đầu: - Ta không ngờ nhà ngươi lại vẽ sai mất ý ta rồi! Chàng họa sĩ bình tĩnh thưa lại: - Tàu bệ hạ, thần xin cam đoan là vẽ đúng. Nếu sai thần xin chịu tội chết. - Sao nhà ngươi lại nói là nhà ngươi vẽ đúng? - Tàu hệ hạ, lúc này ở biên ải, giặc ngoại bang đang rập rình muốn kéo sang cướp nước ta. Quán lính đang ngày đêm đào hào, đắp lũy để chặn đánh. Bệ hạ cũng đang đêm ngày lo nghĩ đến họ, cứ mong sao cho họ ăn no, mặc ấm có đủ sức để đánh giặc. Nhà vua ngạc nhiên, lộ vẻ vui mừng: - Như vậy là nhà ngươi đã đoán đúng ý ta. Nhưng sao nhà ngươi lại vẽ như thế này? - Tâu bệ hạ, thần muốn xin phép bệ hạ được vẽ cái điều mong ước của bệ hạ. Chẳng đã có lúc bệ hạ nghĩ rằng: Sau khi ngăn chặn được giặc ngoại xâm, bệ hạ sẽ cho dựng một cổng khải hoàn để ăn mừng và ghi công những người đã quyết lòng bảo vệ đất nước. Thần xin phép được dâng lên bệ hạ cái ý mọn của thần là không nên dựng cổng mà nên xây một ngôi đền theo kiểu này cho nó vừa đẹp vừa trang nghiêm… Nhà vua liền gật gật đầu: - Như vậy là ta đã hiểu nhà ngươi. Ta khen nhà ngươi vẽ đúng, ta rất xúc động về tấm lòng của nhà ngươi. Vua liền ra lệnh thưởng cho chàng ba chén rượu ngon và sau đó gả luôn công chúa cho chàng. Mùa Đông năm đó, giặc ngoại bang ồ ạt kéo đến biên ải định tràn sang xâm chiếm nước ta. Quân sĩ một lòng quyết đánh đuổi giặc nên cuối cùng đã đánh thắng. Nhà vua liền ra lệnh xây ngôi đền đỏ theo đúng như bức tranh chàng họa sĩ đã vẽ để làm lễ mừng công thật lớn. Đền xây xong, quân sĩ và nhân dân trông thấy đều thấy nức lòng. Được mấy năm thì chàng họa sĩ phò mã ốm nặng rồi chết. Nhà vua, công chúa cùng nhân dân thương tiếc vô cùng. Nhà vua liền ra lệnh mai táng chàng ở bên cạnh ngôi đền đỏ để chàng luôn luôn được ở gần công trình nghệ thuật của mình. Khoảng mười năm sau, bọn giặc ngoại bang lại đưa quân sang xâm lấn lần nữa. Lần này chúng vừa mạnh vừa đông hơn lần trước nhiều. Chúng tràn đến gần kinh vua, ngầm sai người phá sập ngôi đền đỏ, phao tin là mệnh trời đã định, lần này chúng sẽ đánh thắng, sẽ chiếm được kinh thành. Nhưng đánh mãi, chúng không tài nào thực hiện được cải điều chúng đã nói. Và một điều kỳ lạ đã xảy ra. Ngay trên nền đổ nát của ngôi đền đỏ bị chúng ngầm sai người phá sập, chỉ một thời gian sau, có một cái cây kỳ lạ như từ đâu bay đến đậu xuống đây, cành mọc đầy hoa đỏ như những ông mặt trời nho nhỏ đang chiếu sáng. Cái cây nhìn từ xa rất giống ngôi đền ngày trước cũng tầng thấp, tầng cao, tầng cao hơn nữa, cứ nâng nhau lên cao thêm, cao mãi… Và khi hoa nở thì sáo đen mỏ vàng, chân vàng ở đâu cũng bay về đậu hót đầy cành. Nghe được tin ấy, quân sĩ càng nức lòng đánh giặc. Ai cũng bảo: “Đúng là trời vẫn phù hộ vua ta”. Chẳng mấy chốc, bọn giặc ngoại bang lại bị quét sạch sành sanh ra khỏi đường biên ải. Nhà vua mừng lắm, cho xây lại ngôi đền đỏ rồi mở hội mừng công. Một hôm nhà vua lên ngôi đền mới xây lại, đứng nhìn ra bốn xung quanh thì bỗng thấy cùng với ngôi đền mới xây lại này, xa gần, đâu đâu cũng có những cây hoa kỳ lạ, nhìn giống như những ngôi đền sống, hoa đỏ rực, sừng sững, uy nghiêm. Cây hoa kỳ lạ đó, ngày nay là cây hoa Gạo đấy các em! Đã cuối Xuân vào đầu Hè, lúc này hoa Gạo đang mùa nở. Cây nào cũng đang gợi nhớ lại người họa sĩ có tài, có lòng yêu nước, đã vẽ ngôi đền rực đỏ trong bức tranh của mình từ những ngày xưa… xưa… xưa...
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-cay-gao" }
Ông tổ nghề thêu
Chuyện cũ kể rằng, hồi còn nhỏ tuổi, cậu bé Trần Quốc Khái vốn là một thiếu niên rất ham học. Cậu học ngay cả khi đi đốn củi, lúc kéo vó tôm. Tối đến, nhà không có đèn dầu, cậu phải bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng để lấy ánh sáng đọc sách. Cậu Khái học đến đâu thuộc đến đấy và nổi tiếng hay chữ một vùng. Năm 18 tuổi, Trần Quốc Khái bị lí dịch trong làng bắt đi đắp đê sông Hồng. Vi sức yếu không vác nổi những hòn đất to nên bị phạt, phải chôn chân ở mặt đê từ sáng đến trưa. Giữa lúc đó, có một viên quan coi đê đi qua. Thấy khái mặt mũi khôi ngô, lại bị chôn chân, viên quan lấy làm lạ liền dừng lại hỏi: – Nhà ngươi bị tội gì mà phải chôn chân? Người thanh niên tên Khái lễ phép thưa: – Tôi là học trò, sức yếu, không vác nổi những hòn đất to nên bị phạt. Viên quan coi đê vốn cũng có chút vốn liếng chữ nghĩa, liền cười nói: – Nếu ngươi là học trò, ta ra cho ngươi một vế đối. Hễ đối được ta tha cho về. Người thanh niên gật đầu xin vâng. Viên quan nọ liền đọc: – Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy. Vế đối ra khá oái oăm, có tên bốn thứ quả: quả thị, quả chuối tiêu, quả hồng, quả cậy. Người thanh niên Trần Quốc Khái ứng khẩu đối lại ngay: – Trai Quýt Động, thi đỗ Bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam. Vế đối lại cũng đủ bốn thứ quả: quả quýt, quả nhãn, quả bồ quân và quả cam. Nghe xong vế đối, viên quan gật đầu khen ngợi và cho về. Từ đấy, Trần Quốc Khái càng nổi tiếng là người hay chữ. Chẳng bao lâu gặp kì thi, Trần Quốc Khái lều chõng đi thi và đỗ Tiến sĩ. Thế là từ một cậu bé đốn củi, kéo vó tôm ở đất thôn quê, do ham học đã trở thành một vị Tiến sĩ, làm quan to trong triều đình nhà Lê. Người ta bảo “đất sỏi có trạch vàng” cũng là nói nên hiện tượng tương tự như thế đấy. Một lần ông Khái được triều đình nhà Lê cử đi sứ nhà MInh bên Trung Quốc. Trên đường đi sứ, để thử tài sứ bộ, bọn quan lại nhà Minh không cho đi đường chính mà lại dẫn theo đường tắt. Đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn. Ông Trần Quốc Khái bèn cho chặt tre, đan thành những cái dậm, cái nhủi, rồi cho quân lính xuống suối kiếm cá và lên rừng kiếm trái cây để ăn. Nhờ vậy, qua hết quãng đường rừng, đoàn sứ bộ của ta vẫn khỏe mạnh và tiến thẳng đến kinh đô nhà Minh. Sau khi có Khải vào chầu vua Minh và hoàn thành công việc ngoại giao, vua nhà Minh muốn thử tài trí thông minh của sứ thần Đại Việt. Một lần nữa bèn sai dựng một cái lầu cao chót vót, rồi mời Quốc Khái lên chơi. Khi ông lên đến lầu thì ở dưới đất, quân Minh bèn cất thang đi. Không còn lối xuống nữa, ông đành ở trên lầu một mình, xung quanh trời mây bao la, gió thổi hun hút. Ông đưa mắt nhìn quanh lầu, chỉ thấy có hai pho tượng sơn son thiếp vàng và một chum nước uống, cùng với hai cái lọng cắm trước bàn thờ. Ngoài cửa lầu treo một bức trướng thêu nổi ba chữ “Phật tại tâm” nghĩa là Phật ở trong lòng mình. Trong góc lầu còn có hai cây tre tươi và một con dao. Một ngày, rồi hai ngày trôi qua, chỉ có một mình trên lầu vắng, bụng đói mà cơm không có ăn, chỉ có một chum nước, ông nghĩ bụng: có nước uống tất phải có cái ăn. Ông quay ra ngoài ngắm bức trướng, rồi lẩm nhẩm: “Phật tại tâm”. Ông gật đầu cười, rồi bẻ tay pho tượng ra ăn thử xem sao. Thì ra hai pho tượng được nặn bằng bột chè lam. Từ đó, ngày hai bữa, ông cứ ung dung bẻ dần hai pho tượng Phật để ăn. Vốn là người hay làm, ngồi chơi không buồn quá, ông bèn chẻ tre ra vón đan lọng. Ông quan sát kỹ cách làm lọng và nhớ nhập tâm các chi tiết để ghép lọng. Ông lại dùng bọng tre để đun nước uống. Khi đã biết cách làm lọng rồi, ông lại đem bức trướng xuống, tháo các đường chỉ kim tuyến xem cách thêu. Với bàn tay khéo léo và lòng kiên trì, ông lại dùng số chỉ đó thêu vào. Lúc hoàn tất, ngắm nghía ông rất vui, vì nét chữ thêu giống hệt như cũ. Nhờ cách ấy, mà ông tự học được cách thêu các đường nét nổi và cách làm lọng. Ít lâu sau, khi ăn hết hai pho tượng và uống hết chum nước, ông loay hoay tìm đường để xuống. Những buổi chiều ngồi ngắm trời mây, thấy những con dơi xòe cánh chao đi chao lại như chiếc lá, ông nảy ra ý định nhảy xuống, và ông đã dừng mắt lại ở hai cái lọng cắm trên lầu. Cuối cùng, ông mạnh bạo ôm hai cái lọng nhảy xuống đất một cách bình an vô sự. Trước tài trí ứng xử linh hoạt của sứ thần Đại Việt, triều đình nhà Minh vô cùng kính phục. Vua Minh cho làm tiệc lớn để tiễn đưa đoàn bộ sứ của ta. Khi về nước, vì có nhiều công lao với nhà Lê nên ông được phong tước rất hậu, tặng Công bộ Thượng thư thái bảo, được đổi họ sang họ Lê, nên mới có một tên khác nữa là Lê Công Hành. Những năm cuối đời, Lê Công Hành tuy làm quan Thượng thư trong triều nhưng thường về quê hương để truyền dạy cho dân nghề thêu và nghề làm lọng ở làng Quýt Động quê ông, cũng như các làng lân cận: Tam Xá, Võ Lăng, Hướng Dương, Đào Xá,… Dần dần, nghề thêu theo những người thợ vùng Thường Tín (Hà Nội) lan rộng ra khắp nơi. Để ghi nhớ công ơn của ông, người dân trong vùng đã lập đền thờ và tôn ông làm Ông tổ nghề thêu .
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/ong-to-nghe-theu" }
Sự tích ngày Lễ Vu Lan báo hiếu
Ông Ma Ha Một Đặc Già La (thường được gọi là Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên). Vốn là một trong các tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã "quy y" cửa Phật và trở thành một đệ tử lớn của cửa Phật, đạt được sáu phép thần thông. Mục Liên được xếp vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã tu thành chính quả A La Hán, Mục Liên không nguôi nhớ về mẫu thân (xưa kia "mẫu thân" là Mẹ) và muốn biết mẹ mình bây giờ ra sao, Mục Liên đã dùng huệ nhãn của mình để tìm kiếm mẹ. Trước kia, do gây phải nhiều nghiệp ác nên mẹ Mục Liên phải sanh làm quỷ đói (ngạ quỷ) ở nơi địa ngục A Tỳ, bị đói khát và hành hạ vô cùng khổ sở. Thân hình chỉ còn da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ,  vô cùng tiều tụy, khát cũng không có nước uống. Quá xót xa và thương cảm, Mục Liên đang mang cơm xuống tận cõi quỷ để dâng cho mẹ. Tuy nhiên, do ở xung quanh lâu ngày đều là quỷ đói lâu ngày không được ăn nên mẹ của Mục Liên đã dùng một tay che cơm của mình đi để khiến các cô hồn khác không đến tranh cướp. Vì thế, khi đưa cơm lên miệng thì đều hóa thành than đỏ rực, không sao có thể nuốt nổi. Mục Liên buồn bã quay về tìm Phật, bạch chuyện cùng Đức Phật và xin được chỉ dạy cách để cứu mẹ. Phật đã dạy rằng: Vì những nghiệp chướng mà các kiếp trước mẹ của Mục Liên mà bà phải sinh vào nơi ác đạo và trở thành ngạ quỷ. Dù Mục Liên có phép thần thông quảng đại hay tận hiếu với mẹ tới đâu cũng đều không thể đủ sức cứu mẹ. Cần phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp nẻo và đồng tâm hiệp ý "cầu xin cứu rỗi" mới có thể thành được. Bởi thế, Phật đã dạy Mục Liên phải cúi mình thành kính đi rước các chư tăng khắp mười phương bốn hướng về, đặc biệt là những vị chư tăng đã được bốn quả thánh hoặc đạt đủ 6 phép thần thông. Nhờ những công đức của các vị này, vong linh mẹ của Mục Liên mới mong thoát được khỏi khổ đạo. Ngày Rằm Tháng Bảy là ngày thích hợp nhất để đến "cung thỉnh" chư tăng hay đi sắm sửa lễ cúng vào ngày đó. Mục Liên làm đúng theo những lời Phật dạy. Quả nhiên, vong linh mẫu thân của ông đã thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Ở Việt Nam, lễ Vu Lan được thực hiện vào Rằm Tháng Bảy âm lịch. Tuy nhiên, do ở ngày này, nhiều gia đình đã tổ chức làm lễ cúng "Xá tội vong nhân" nên nhiều người thường bị nhầm lẫn giữa hai lễ cúng này. Mặc dù vậy, cả hai lễ này đều mang đến ý nghĩa chung là làm phúc và báo hiếu. Không chỉ ngày lễ Vu Lan mà tất cả mọi ngày trôi qua, chúng ta đều cầu mong rằng cha mẹ luôn khỏe mạnh, cũng như câu: “Đêm đêm con thắp đèn trời, cầu cho cha mẹ sống đời với con”.
{ "type": "Truyện cổ tích Việt Nam", "url": "https://truyencotich.top/doc-truyen/su-tich-ngay-le-vu-lan-bao-hieu" }